Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng - 2


phóng cá nhân, giải phóng người phụ nữ thoát khỏi cánh cửa ngục thất của chế độ đại gia đình phong kiến. Người ta xem Đoạn tuyệt của Nhất Linh như một thứ “vũ khí” bắn thẳng vào thành trì kiên cố và bảo thủ của xã hội phong kiến. Trên báo Loa (1935), Trương Tửu nhận xét: “Đoạn tuyệt là một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu của chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái tin tưởng ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng phấn đấu nghĩa là vui mà sống”. Trương Chính còn cho rằng: “Đoạn tuyệt đánh dấu một cách rõ ràng thời kỳ thay đổi tiến hóa của xã hội An Nam. Nó công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết bao nhiêu hy vọng, đè bẹp bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu chí khí bồng bột đương ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh liệt cường tráng” [23, 293]. Còn “Nửa chừng xuânlà cuốn truyện ghi dấu sự phấn đấu giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện luận cho quan hệ nhân sinh mới và công bố sự bất hợp thời của những tập quán do nền luân lý cổ truyền tạo ra” [14, 313].

Nhìn một cách tổng quát, giới phê bình trước 1945 đánh giá cao Tự lực văn đoàn. Nội dung tư tưởng với chủ đề chống lễ giáo phong kiến và giải phóng cá nhân được chú ý quan tâm. Tuy nhiên, các công trình này còn rất chung chung và có phần giản đơn. Đó mới chỉ là những bước gợi mở chứ chưa đi sâu khám phá những đóng góp về phương diện nghệ thuật.

Giai đoạn thứ 2 (từ 1946 – 1986):

Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nên việc đánh giá một số hiện tượng văn học trong đó có Tự lực văn đoàn ở giai đoạn này bị tạm gác lại. Thời kỳ này, người ta nhìn nhận và đánh giá văn học dưới góc nhìn chính trị, các tiêu chí đánh giá một tác phẩm văn học đều xuất phát từ lập trường và quan điểm giai cấp. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn giai đoạn này bị đánh giá chưa thỏa đáng, thậm chí còn có phần khắt khe. Tuy nhiên, cũng có những ý


kiến khẳng định những đóng góp của Tự lực văn đoàn. Đồng chí Trường Chinh trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam được nêu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948) vừa nêu những hạn chế của văn đoàn này nhưng đồng thời cũng đã khẳng định: “Dẫu sao, hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến tới”.

Có một điểm rất đáng lưu ý là sự khác nhau trong quan điểm và thái độ đánh giá về Tự Lực văn đoàn ở hai miền Nam - Bắc.

miền Bắc, không kể các bài viết, có các công trình nghiên cứu của nhóm Lê Quý Đôn với Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957); Văn học Việt Nam 1930 – 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo văn học Việt Nam (1964) của Viện Văn học; Tiểu thuyết Việt Nam của Phan Cự Đệ, tập 1 (1974)… đều nhắc tới Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng. Nhưng nhìn chung, quan điểm của các công trình này tỏ ra hết sức khắt khe đối với đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nguyên nhân là do các nhà phê bình đã căn cứ vào những tiêu chí chính trị của văn học cách mạng và lấy đó làm thước đo các giá trị cho văn học lãng mạn mà quên mất rằng, văn học lãng mạn có những đặc trưng riêng của nó. Thêm vào đó các nhà phê bình lại quá coi trọng việc phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Họ cho rằng, văn học là phải phản ánh được đời sống cực khổ của nhân dân do bị địa chủ, thực dân áp bức bóc lột mà quên đi đời sống nội tâm với bao dằn vặt, day dứt của thế hệ thanh niên trí thức cũng là một vấn đề đáng được quan tâm. Chính vì vậy mà Tự lực văn đoàn bị đánh giá là xa rời thực tiễn.

Có thể nói, những nhận định về Tự lực văn đoàn còn dè dặt, mới chỉ khen ngợi một chút về nội dung chống phong kiến và phương diện nghệ thuật “Về phương diện văn học sử, công lao chủ yếu của Nhất Linh và Khái Hưng là đã có những đóng góp trong việc xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại”

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.


[10, 87]. Còn chủ yếu là phê phán khá mạnh mẽ các tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng.

Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng - 2

Trái ngược với miền Bắc, ở miền Nam, Tự lực văn đoàn lại được đề cao, chú trọng quá mức. Nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã được in lại và phổ biến rộng rãi. Bên cạnh các bài viết đăng trên các tạp chí, còn có các công trình văn học sử được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Có nhiều công trình khảo cứu và nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như: Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của văn chương sáng giá của Hồ Hữu Tường (1964); Nhất Linh, văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn của Phạm Thế Ngũ (1965); Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng của Bùi Xuân Bào (1972)… Nhiều công trình văn học sử được dùng trong nhà trường như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) của Nguyễn Văn Xung; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1960) của Phạm Thế Ngũ; Tự lực văn đoàn (1960) của Doãn Quốc Sỹ; Văn học thế hệ 1932 (1972) của Thanh Lãng; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1972) của Bùi Xuân Bào; Lược sử văn học Việt Nam - Nhà văn tiền chiến (1974) của Thế Phong.

Đặc biệt, sau khi Nhất Linh qua đời, xuất hiện một loạt các bài viết tưởng nhớ về ông của các tác giả Đặng Tiến, Tường Hùng, Doãn Quốc Sỹ, Trương Bảo Sơn, Thế Uyên, Nguyễn Văn Trung…

Nhìn chung, các ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng không có gì mới so với thời kỳ trước 1945. Chẳng hạn Thế Phong đã khen Khái Hưng: “Đi sâu vào tâm lý với một kỹ thuật viết trưởng thành”. Hay Nguyễn Văn Xung trong Bình giảng về Tự lực văn đoàn viết: “Không phải tả cảnh như Khái Hưng nhưng là để móc vào đấy những biến chuyển trong tình cảm nhân vật” [71, 32]. Một vài ý kiến ghi nhận sự đóng góp của Nhất Linh, Khái Hưng nhưng còn mờ nhạt. Bên cạnh đó, xu hướng đề cao vẫn là cơ bản. Như vậy, ở thời kỳ này, các ý kiến vẫn tập trung


đề cao tiểu thuyết của hai ông. Sự đối cực giữa các ý kiến không làm rõ được những đóng góp cũng như hạn chế của Tự lực văn đoàn. Đôi khi sự đóng góp cũng được ghi nhận song còn rất mờ nhạt. Trong khi đó, các giá trị đích thực của văn chương lại không hề được đề cập tới.

Giai đoạn thứ ba (từ sau 1986):

Công cuộc đổi mới đất nước đã thực sự mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của văn học nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung trong phạm vi cả nước. Với tư duy nghệ thuật đổi mới, các nhà nghệ sĩ đã được “cởi trói” và thoát khỏi sự nhìn nhận đánh giá nghệ thuật theo quan điểm chính trị. Những sự “hàm oan” của văn học trong quá khứ đã được các nhà khoa học nhìn nhận lại một cách khách quan hơn, trả lại cho văn học những giá trị đích thực mà nó vốn có.

Hầu hết tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng đã được tái bản, một số cuốn được tái bản nhiều lần với số lượng lớn. Các hội nghị khoa học được mở ra nhằm xem xét, đánh giá lại các tác phẩm văn chương của Tự lực văn đoàn. Tháng 5 năm 1989, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp phối hợp với Đại học Tổng hợp và các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học danh tiếng như: Tô Hoài; Huy Cận, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đình Hượu, Phong Lê … đã tổ chức cuộc Hội thảo văn chương về Tự lực văn đoàn. Tại đây, các nhà nghiên cứu tập trung khẳng định lại vai trò và những đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà.

Tiếp sau hội thảo này, xuất hiện hàng loạt các công trình, các bài viết có giá trị nghiên cứu về văn chương của Tự lực văn đoàn như: Về Tự Lực văn đoàn (1989) - Nguyễn Hữu Trác, Đái Xuân Ninh; Tự lực văn đoàn, con người và văn chương (1990) - Phan Cự Đệ; Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông (1991) - Trần Đình Hượu; Thêm mấy ý kiến về Tự lực văn


đoàn (1991) - Lê Thị Đức Hạnh… Ngoài ra còn một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như: Tiểu thuyết Nhất Linh trước Cách mạng Tháng Tám (1997) của Vũ Thị Khánh Dần; Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn (1997) của Lê Thị Dục Tú; Mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn (2003) của Nguyễn Thị Tuyến…

các bài viết và những công trình nghiên cứu này, các tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng đã được ghi nhận và đánh giá công bằng theo những giá trị văn học đích thực. Giáo sư Phan Cự Đệ trong Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương đã có những đánh giá hết sức công bằng và giàu sức thuyết phục: “So với tiểu thuyết trước năm 1930, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã đi sâu hơn nhiều vào thế giới nội tâm phong phú của con người… Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín đáo và ý nhị” [9, 370]. Dù vậy, GS cũng chỉ ra những hạn chế: “Tuy nhiên, ở những tác phẩm thời kỳ cuối Khái Hưng, Nhất Linh không những không đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, mà còn có xu hướng đẩy con người vào chủ nghĩa duy tâm và định mệnh” [9. 330].

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều công nhận nội dung tiến bộ của tiểu thuyết Nhất Linh là thể hiện khát vọng giải phóng con người cá nhân, giải phóng người phụ nữ thoát khỏi những giáo lý khắc nghiệt của xã hội phong kiến và lên tiếng đòi quyền được hưởng hạnh phúc cho con người. Nhà nghiên cứu Vu Gia trong cuốn Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học đã viết: “Đoạn tuyệt là cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, và là cuốn tiểu thuyết mà Nhất Linh muốn đem đến cho người đọc thời bấy giờ thấy được tiếng Việt cũng đủ khả năng diễn đạt mọi ngóc ngách tình cảm của con người, thấy được đâu là cái mới, cái cũ, đâu là tiến bộ văn minh, đâu là lạc hậu lỗi thời, và để người đọc hôm nay thấy được sự gian truân của


buổi đầu chống lại chế độ đại gia đình phong kiến” [17, 153]. Giáo sư Hà Minh Đức trong lời giới thiệu Nửa chừng xuân đã viết: “Nửa chừng xuân là cuộc tiến công vào lễ giáo phong kiến đã khẳng định quyền tự do hôn nhân của lớp thanh niên trí thức đang được phát triển về quyền sống và ý thức cá nhân” [25, 10]. Thời kỳ này các nhà nghiên cứu phê bình đã khai thác giá trị văn chương của Tự lực văn đoàn khá hợp lý với thái độ công bằng và khách quan.

Đã nhiều năm qua đi, việc nghiên cứu và đánh giá về hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng ngày càng có những khám phá mới mẻ và xác đáng. Tuy nhiên việc đi sâu vào nghiên cứu hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt Nửa chừng xuân trong sự đối sánh với nhau thì lại ít người để ý tới. Đứng trước thực trạng đó, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu hai tác phẩm Đoạn tuyệt Nửa chừng xuân để chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt trong tác phẩm của hai nhà văn. Trong luận văn của mình, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu một cách có hệ thống tư tưởng nghệ thuật của Nhất Linh, Khái Hưng cùng những cách thức xây dựng hệ thống nhân vật của hai nhà văn này và những đóng góp cho quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Qua luận văn, chúng tôi mong muốn được góp một tiếng nói nhỏ bé của mình vào việc khẳng định và tôn vinh những giá trị nghệ thuật mà Tự lực văn đoàn nói chung và hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng đã đóng góp cho tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Đối tượng khảo sát chính là hai cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng: Đoạn tuyệt Nửa chừng xuân. Để hiểu rõ hơn về hai tác giả này, chúng tôi đi vào nghiên cứu thêm một số tiểu thuyết khác nhằm bổ trợ cho những nhận thức và hiểu biết sâu sắc hơn về quan niệm nghệ thuật của Nhất


Linh, Khái Hưng như: Nho phong, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng của Nhất Linh; Hồn bướm mơ tiên, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự của Khái Hưng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi tập trung nghiên cứu về vấn đề chống lễ giáo phong kiến, giải phóng cá nhân trong hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt Nửa chừng xuân. Đặc biệt chú ý nhấn mạnh tới hai hệ thống nhân vật nữ đối lập nhau. Một bên là những người con gái tân thời có học, được tiếp xúc với văn minh phương Tây, đại diện cho cái mới. Một bên là người phụ nữ mang nặng tư tưởng phong kiến, đại diện cho cái cũ. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu tâm lý và hành động của những nhân vật phụ nữ có quan niệm sống hiện đại trong quá trình đấu tranh giải phóng cá nhân. Về phương diện nghệ thuật, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới sự hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp so sánh đối chiếu

- Phương pháp thống kê phân loại

- Phương pháp văn học sử

5. Đóng góp của luận văn

Viết luận văn này, chúng tôi mong muốn được góp tiếng nói nhỏ bé vào việc tiếp tục khẳng định và tôn vinh vị trí, vai trò cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh Khái Hưng nói riêng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.

Luận văn đi vào khảo sát cụ thể hai tác phẩm Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng để thấy được những cách tân về mặt thể loại trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.


Nghiên cứu tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, Khái Hưng chúng tôi nhằm chỉ ra sự đóng góp của hai nhà văn trong công cuộc đấu tranh bênh vực cho cái mới, lên tiếng đòi phá bỏ những cái cũ đã lạc hậu, lỗi thời, đòi quyền tự do cá nhân cho con người.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được triển khai ở 3 chương:

Chương 1: Đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.

Chương 2: Bước chuyển trong quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Nhất Linh và Khái Hưng.

Chương 3: Những cách tân nghệ thuật trong Đoạn tuyệt Nửa chừng xuân.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2023