Nghiên Cứu Biểu Tượng Trong Tiểu Thuyết Murakami


nhất định trong việc giới thiệu và dẫn dắt người đọc tiếp cận tiểu thuyết Murakami. Có thể nói, trong tương lai hướng nghiên cứu này chắc vẫn còn những đóng góp nào đó về Murakami. Tuy không trực tiếp khai thác biểu tượng, nhưng cách tiếp cận tự sự học đã giúp cho chúng tôi nhiều ý kiến tốt để khai thác biểu tượng của Murakami.

Thứ tư, Nghiên cứu so sánh (Comparative Criticism) tiểu thuyết Murakami trong mối quan hệ tiếp nhận, ảnh hưởng của văn học dân gian và những tác phẩm của các tác giả khác trên thế giới cũng là hướng nghiên cứu được chú ý ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những tiếp thu - sáng tạo từ kho tàng vô thức tập thể và tư tưởng, phương pháp sáng tác của những tài năng đi trước góp phần định hình và làm nên phong cách riêng, độc đáo của nhà văn.

Tiểu thuyết Murakami là thế giới của những câu chuyện kể mang màu sắc kì ảo, hoang đường với tập hợp các nhân vật vừa thực - ảo, siêu nhiên – bí ẩn. Trong tâm thế sáng tạo, Murakami đã tiếp nhận, ảnh hưởng và vay mượn từ truyện kể dân gian Nhật Bản và thế giới. Trong bài viết Phức cảm Genji trong tiểu thuyết “Kafka bên bờ biển” của Haruki, Nguyễn Thị Bích Thủy nhận thấy bản sắc dân tộc Nhật Bản và Murakami là sự hòa quyện thống nhất. Tiểu thuyết Kafka bên bờ biển, cho dù là sự tổng hợp của kĩ thuật viết văn thế giới: chủ nghĩa siêu thực, hiện thực kì ảo, bi kịch Hi Lạp, ảo giác, chiêm bao, định mệnh… thì cuốn sách vẫn chứa đựng rất nhiều thành tố văn hóa Nhật Bản, vẫn được coi là “cuốn tiểu thuyết giàu màu sắc Nhật Bản nhất”. Điều đó cho thấy trầm tích văn hóa, văn học truyền thống đã tích tụ một cách “vô thức” trong nhãn quan nghệ thuật của Murakami. Tác giả cho rằng Murakami hiểu mã văn hóa truyền thống Nhật Bản trong truyện kể Genji và đã xây dựng nhân vật Kafka Tamura trong tính biểu tượng nước đôi. Mô-típ chủ đạo của cốt truyện là lời nguyền số phận “giết cha, lấy mẹ” như trong bi kịch Hi Lạp, nhưng trong quá trình sáng tạo, Murakami lại bị chi phối bởi lối tư duy và cách ứng xử của người Nhật. Cậu bé Kafka mang dáng dấp của chàng Oedipus trong vở bi kịch Oedipus làm vua của Sophocles nhưng được Murakami xây dựng thành một “huyền thoại mới” về con người và xã hội Nhật Bản thế kỉ XXI. Có thể xem câu chuyện là một cách “đọc lại” huyền thoại của Murakami. Từ Genji monogatari, “phức cảm Genji” trở thành một kiểu xúc cảm mang tính “cổ mẫu” của văn học Nhật Bản. Nó có thể được lí giải từ góc độ “cội rễ” của văn hóa Nhật Bản. “Phức cảm Genji” đã tạo hiệu ứng cho Kafka bên bờ biển, chuyển tải thông điệp của Murakami đến với độc giả về “bản ngã”, “bản năng” (xung năng sống) của con người trong xã hội hiện đại cần phải được quan tâm và trân trọng. Tác giả khẳng định: “Sự dung hợp hài


hòa của niềm bi cảm aware, của cảm thức truyền thống Nhật Bản với văn chương phương Tây hiện đại đã tạo thành phong cách riêng của Murakami - tiểu thuyết gia văn học đương đại Nhật Bản” [75,145-153].

“Murakami từng khẳng định ông không nợ một giọt mực nào của văn chương truyền thống. Tuy nhiên, đọc tác phẩm của Murakami, độc giả thường gặp lại những yếu tố văn hóa dân gian trong hình thức tiểu thuyết của ông” [37]. Đó là nhận định của Nguyễn Thị Mai Liên trong bài viết Motif Folklore trong tiểu thuyết “1Q84” của Murakami. Tác giả đi sâu tìm hiểu cuộc đấu tranh Thiện – Ác trong tiểu thuyết 1Q84 qua việc quan sát cách Murakami tiếp thu và sáng tạo những motif có nguồn gốc từ những tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa dân gian khác nhau. Bài viết trên cơ sở minh định motif, xác định một số motif cơ bản được tái sinh mới mẻ trong tiểu thuyết 1Q84 như: diệt ác quỷ, chạy trốn, lạc vào xứ sở khác, sinh nở kì lạ, phân thân thoát xác... Tác giả đã có những luận giải thuyết phục nhằm khẳng định quan điểm của mình khi đi phân tích giá trị của các motif trong việc biểu đạt tư tưởng và đi đến kết luận: “Tiểu thuyết bộc lộ cái nhìn hi vọng tràn đầy tư tưởng nhân văn của nhà văn về cuộc đời cũng như khả năng tiếp biến, tái sinh sáng tạo những motif dân gian của ông” [37].

Nguyễn Thị Kim Ngân trong bài viết Sự tái sinh các motif folklore trong “Biên niên kí chim vặn dây cót” của Murakami đã phân tích các motif dịch chuyển không gian được tái sinh trong Biên niên kí chim vặn dây cót như: thế giới khác trong lòng giếng, đi xuống địa ngục bằng giếng và các motif khác như: thế giới khác trong mơ, làm tình trong thế giới khác, đèn thần, sứ giả trao kỉ vật... Tác giả cho rằng khác với các motif trong folklore, motif được Murakami tái sử dụng hầu hết không được nhà văn trình bày như một chỉnh thể. Các motif này đã được Murakami kế thừa trong sự sáng tạo, chúng luôn bị tách rời, bị cắt vụn, bị đan xen, bị nghiền nhỏ hoặc cố tình bị phân tán và chồng lấn lên nhau đúng như tinh thần của hậu hiện đại [61].

Ngô Viết Hoàn với Cổ mẫu shadow và motif cuộc hành trình trong tiểu thuyết “Người tình Sputnik” của Murakami nhận thấy việc giải mã tác phẩm văn học từ mã văn hóa trong sáng tác của nhà văn rất quan trọng. Tác giả cho rằng Murakami chịu ảnh hưởng của văn học dân gian thế giới qua motif hành trình này. Đây là một “motif quen thuộc nhưng đã được nhà văn thổi vào đó tinh thần hậu hiện đại vì thế cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc, tình yêu của nhân vật Murakami vô cùng mới mẻ và thu hút” [31,9].


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.

Ngoài những nghiên cứu về sự ảnh hưởng của văn học dân gian đến tiểu thuyết Murakami, ở Việt Nam còn có các công trình viết về sự tác động của các tác giả Nhật Bản và trên thế giới thế hệ trước và cùng thời với nhà văn. Những nghiên cứu này cho thấy mối quan tâm của giới khoa học Việt Nam đến Murakami là rất lớn. Điểm qua các hướng nghiên cứu chính trên đây, chúng tôi nhận thấy những kiến giải của các nhà nghiên cứu, tùy từng góc nhìn khác nhau, cũng đều đi đến thống nhất là văn phong Murakami đan xen chất bình dân và bác học, việc hiểu thấu đáo tác phẩm của ông quả không hề dễ. Những luận điểm về tính đa nghĩa hay tính mơ hồ về nghĩa là những gợi ý thiết thực để chúng tôi triển khai đề tài.

1.2. Nghiên cứu biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami

Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami - 6

Từ nhiều năm nay, Murakami đã trở thành một “hiện tượng” trên văn đàn thế giới. Thế nhưng, trong phạm vi tài liệu chúng tôi thu thập được, vấn đề biểu tượng trong sáng tác của Murakami chưa nhận được sự quan tâm thích đáng và chưa có một công trình chuyên sâu nào được xuất bản.

1.2.1. Ở nước ngoài

Hầu hết các bài viết về biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami ở nước ngoài chủ yếu mới dừng lại ở việc định danh một số biểu tượng của Murakami chứ chưa đi sâu phân tích. Một số bài viết trên cơ sở khảo sát tác phẩm Murakami từ các phương diện khác nhau đã chạm đến hoặc phân tích một vài biểu tượng cụ thể nhưng nhìn chung tính hệ thống về nghiên cứu biểu tượng của tiểu thuyết Murakami vẫn đang là vấn đề bỏ ngỏ.

Bài viết She‟s just not there: A study of psychological symbols in Murakami‟s work (Cô ấy không ở đó: Một nghiên cứu về các biểu tượng tâm lý trong tác phẩm Murakami) của Johanna Nygren là bài viết tìm hiểu về biểu tượng giấc mơ trong Biên niên kí chim vặn dây cót dưới cái nhìn của lý thuyết phân tâm học. Tác giả nhận thấy giấc mơ giữ vai trò quan trọng trên hành trình tìm lại chính mình của nhân vật chính. Trong quá trình tìm hiểu, Johanna Nygren chỉ ra mối liên hệ giữa biểu tượng giấc mơ với hai biểu tượng giếng căn phòng. Tác giả khẳng định sự xuất hiện của hai biểu tượng trên chính là đường dẫn nối kết giữa thế giới thực và ảo, giữa không gian tỉnh và mơ của nhân vật. Giếng là biểu tượng của tâm trí rối bời mà nhân vật đang phải trải qua và căn phòng là biểu tượng cho người phụ nữ. Mặc dù không đi sâu phân tích kĩ từng biểu tượng nhưng bài viết có những gợi mở thú vị cho người đọc trong việc tiếp nhận tiểu thuyết của Murakami [115].

Deirdre Flynn trong luận án Literature‟s Postmodern Condition: Representing


the Postmodern in the Translated Novel (Điều kiện hậu hiện đại của văn học: Tái hiện hậu hiện đại trong tiểu thuyết dịch, 2014), tìm hiểu tầm ảnh hưởng của văn học hậu hiện đại đến sáng tác của Murakami. Tác giả đã lựa chọn một số tác phẩm tiêu biểu của Murakami để phân tích làm rò quan điểm của mình đặt ra trong luận án. Và trong một số chương, Deirdre Flynn có định danh, phân tích ngắn gọn về vài biểu tượng mà Murakami đã sử dụng. Cụ thể, ở chương 2: The Condition of the Contemporary, mục 2.1. A Wild Sheep Chase, trang 116, Deirdre Flynn có nhắc đến biểu tượng “cừu” trong tiểu thuyết Cuộc săn cừu hoang với ý nghĩa “đối với Murakami, cừu là loại biểu tượng của sự phát triển không kiểm soát mà nhà nước Nhật Bản theo đuổi trong tiến trình hiện đại hóa” [99,116]; mục 2.5.1Q84, trang 168, khi tìm hiểu tầm quan trọng của sự kết nối đối với cuộc sống nhân vật chính 1Q84, hành trình tìm kiếm tự ngã bắt buộc họ phải liên kết với người khác thông qua thấu hiểu và chia sẻ, tác giả phân tích tâm trạng nhân vật Aomame khi đối diện với ranh giới giữa sự sống và cái chết đã liên hệ với biểu tượng “nước ối”, nước theo ý nghĩa của sự tái sinh, sự mặc khải: “Biểu tượng của nước và sự im lặng mặc khải của Aomame mang lại cho tâm trí những gì trống rỗng của Biên niên kí chim vặn dây cót và nước của những dòng suối, ao hồ của Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới” [99,168]. Ở chương 4: Positioning the Postmodern Female, Deirdre Flynn khảo sát vai trò của người phụ nữ trong tiểu thuyết của Murakami. Tác giả nhắc đến biểu tượng cổ mẫu phức hợp: mẹ/gái điếm và cho rằng: “những người phụ nữ của Murakami tiến triển thành một điều gì đó phức tạp hơn và cuối cùng cùng chia sẻ không gian hậu hiện đại”.

M. Buttner trong luận án A Sartrean Perspective on Inertia and Alienation in “The Silent Cry” by Kenzaburo Oe and “The Wind-up Bird Chronicle” by Murakami (Một quan điểm của Chủ nghĩa hiện sinh về sự thụ động và tha hóa trong “Tiếng gào câm lặng” của Kenzaburo Oe và “Biên niên kí chim vặn dây cót” của Murakami, 2012) nhắc đến hình ảnh giếng với ý nghĩa tượng trưng của tâm trí, của thế giới vô thức mà nhân vật cần phải đào sâu để đi đến mục đích cứu mình và đem hạnh phúc trở lại. Hành động của các nhân vật khi tìm xuống giếng sâu chính là hành trình tìm đến với bản ngã, đến cốt lòi sâu thẳm trong mỗi cá nhân [90,45].

Năm 2009, trong chương IV: Murakami‟s History: Unspeakable Thought Spoken của luận án From Postmodern to Post Bildungsroman from the Ashes: An Alternative Reading of Murakami Haruki and Postwar Japanese Culture (Từ hậu hiện đại đến hậu tiểu thuyết giáo huấn từ đống tro tàn: Một cách đọc khác về


Murakami Haruki và văn hóa Nhật Bản thời hậu chiến), Chiaki Takagi mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về biểu tượng của Murakami song đôi lúc, trong quá trình phân tích nội dung của các tiểu thuyết, tác giả đã gọi tên một số biểu tượng như: con đường (ngò hẹp), giếng, cừu, bóng/bóng tối [137].

Roos Bunnik khi vận dụng lý thuyết về ngôn ngữ của Barthes để luận bàn dụng ý của Murakami khi xây dựng một số văn cảnh mà các nhân vật hầu như triệt tiêu ngôn ngữ. Roos Bunnik gọi đó là những “kí hiệu rỗng” (empty signs) và cho rằng nhân vật trong tiểu thuyết Rừng Na Uy luôn mang một tâm trạng trống rỗng, hoang mang giữa lòng thủ đô Tokyo rộng lớn. Mặc dù Tokyo là một trong những thành phố lớn nhất thế giới, nhưng sự phát triển của nó đang xoay xung quanh một trung tâm trống rỗng tưởng tượng. Tokyo là biểu tượng của sự trống rỗng trong hành trình giao thoa, phát triển không có nền móng vững chắc dưới sự ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa phương Tây [121].

Heather H. Yeung trong More than the Sum of its Parts Popular Music, Gender and Myth in Haruki (Hơn cả tổng số phần của nó: Âm nhạc, Giới tính và Huyền thoại trong Haruki) là một trong những bài viết nghiên cứu chi tiết nhất về vai trò của biểu tượng âm nhạc trong hành trình kiếm tìm bản ngã của nhân vật. Tác giả khảo sát sự xuất hiện của yếu tố âm nhạc trong mỗi tác phẩm (từ truyện ngắn đến tiểu thuyết) và nhận thấy hầu như mỗi kí ức, mỗi giai đoạn quan trọng trong cuộc đời nhân vật đều gắn kiền với một ca khúc mang ý nghĩa nào đó. Và chỉ cần sự khơi mở của tiết tấu, nhân vật sẽ lần theo để tìm về với chính mình. Nói cách khác, “đối với Murakami, âm nhạc là phương tiện tốt nhất để thâm nhập vào sâu thẳm của vô thức, vào cốt lòi của bản thân”. Âm nhạc là phông nền văn hóa, “kí ức văn hóa” của mỗi người, “nếu bạn mất kết nối với vô thức và kí ức của mình, có vẻ như Murakami đang bình luận, bạn từ bỏ bản thân và tất cả các khía cạnh mà nó tạo ra, và bạn đánh mất bản sắc văn hóa – vai trò giới tính, cùng với nhu cầu của bạn dành cho âm nhạc” [152,38].

Matthew Strecher trong loạt bài phân tích về các tiểu thuyết của Murakami đã đề cập đến một số biểu tượng được nhà văn sử dụng trong tác phẩm. Cụ thể trong bài viết về tiểu thuyết Biên niên kí chim vặn dây cót, tác giả cho rằng “giếng” “là một motif chính trong tiểu thuyết của Murakaimi như một ống dẫn giữa hai thế giới ý thức và vô thức”; còn hình ảnh “chim vặn dây cót” là “biểu tượng của sức mạnh hệ thống, thao túng và kiểm soát người dân”. Trong bài viết hướng dẫn cách đọc Kafka bên bờ biển, Matthew Strecher nhận thấy motif “bóng” mang ý nghĩa biểu


tượng “của cổng thông tin, là ống dẫn giữa thế giới vật lý và siêu hình, giữa linh hồn và xác thịt”. Tác giả còn tìm thấy mối quan hệ giữa hai biểu tượng Johnny Walker và đại tá Sanders là “những nguyên mẫu của nội tâm, là đối lập giữa hủy diệt – sự sống” [133,34].

Murakami‟s “The Wind-up Bird Chronicle”, A reader's guide (“Biên niên kí chim vặn dây cót” của Murakami, hướng dẫn người đọc) là chuyên luận được Matthew Strecher viết với mong muốn chia sẻ cách tiếp cận một trong những tiểu thuyết hấp dẫn của Murakami - Biên niên kí chim vặn dây cót. Người viết đã dụng công khi đi sâu nghiên cứu, phân tích nhiều vấn đề liên quan đến quan điểm sáng tác, phong cách nghệ thuật của Murakami. Chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề đáng chú ý mà tác giả đặt ra có liên quan đến biểu tượng trong tiểu thuyết Biên niên kí chim vặn dây cót như: Darkness and light (Bóng tối và ánh sáng) (tr.6); The well and The mark (Giếng và vết bầm) (tr.21), Cinnamon and The labyrinth (Quế và mê cung) (tr.30); The well: conduit between World (Giếng: đường dẫn giữa các thế giới) (tr.49). Matthew Strecher cho rằng sự xuất hiện dày đặc của những chi tiết kể trên là những motif quen thuộc mà nhà văn sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm chuyển tải quan niệm về cuộc sống Nhật Bản hiện đại. Tác giả khẳng định, “Tiểu thuyết mô tả một cổ mẫu biểu tượng giữa thiện và ác, sự phân giải trong đó có khả năng đem lại sự sống cho vùng đất hoang” [133,41]. Đây có thể xem là gợi mở quan trọng giúp chúng tôi có thêm định hướng trong quá trình “đánh thức” những biểu tượng còn “ngủ mê” trong tiểu thuyết Murakami.

Trong số các tiểu luận về tiểu thuyết Murakami có liên quan đến biểu tượng, chúng tôi nhận thấy có bài viết Murakami‟s Deconstructive Reading of the Myth of Johnnie and Colonel Sanders in Kafka on the Shore (Đọc giải cấu trúc huyền thoại về Johnnie và Colonel Sanders trong Kafka bên bờ biển của Murakami, 2012) của Djakaria phân tích kĩ hai biểu tượng mới trong Kafka bên bờ biển. Mượn hai biểu tượng thương hiệu nổi tiếng trên thế giới là Johnnie Walker Colonel Sanders, Murakami “đưa họ vào một hành trình, mang lại cho họ một ý nghĩa mới cho sự tồn tại, cuối cùng là nỗ lực để giải cấu trúc huyền thoại cho hai biểu tượng của cuốn tiểu thuyết” [95,93]. Djakaria cho rằng với ý nghĩa ban đầu của biểu tượng, cả hai đều có những đặc điểm mà các biểu tượng được tạo ra cho một số mục đích nhất định, ví như “thương hiệu có thể nhận ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới đã sống sót sau những cơn co giật kinh tế. Murakami mang lại những đặc điểm mới cho biểu tượng hoàn toàn trái ngược với ý nghĩa tích cực”. Nếu trong thực tế, biểu tượng Johnnie


Walker mang ý nghĩa của “sự thành công, và thành công sẽ dẫn đến hạnh phúc” thì trong Kafka bên bờ biển, ông đã biến Johnnie Walker trở thành một nhân vật phản diện, một biểu tượng tiêu cực trong mối quan hệ với sự thất bại. Đại tá Sanders là biểu tượng nổi tiếng của chuỗi thức ăn nhanh gà rán Kentucky trên toàn thế giới. Đó là “biểu tượng của chủ nghĩa tư bản cung cấp hàng hóa và sản phẩm tốt nhất cho phúc lợi con người. Trong cuốn tiểu thuyết, Murakami giải cấu trúc chủ nghĩa tư bản trở thành thứ tồi tệ nhất: đại tá Sanders là kẻ dắt mối, quản lý gái mại dâm, “hành động bị xã hội lên án là tàn ác và vô đạo đức, do đó hình ảnh đại tá Sanders chuyển từ ý nghĩa tích cực thành tiêu cực” [95,100]. Bài viết đã có những luận giải thuyết phục nhằm góp phần khẳng định điều mà Murakami luôn phủ nhận, đó là nghệ thuật sử dụng biểu tượng nhằm tạo ra những tầng nghĩa mới, dày đặc trong tác phẩm của nhà văn.

1.2.2. Ở Việt Nam

Tìm hiểu tiểu thuyết Murakami từ biểu tượng vẫn còn là khoảng trống khá lớn trong nghiên cứu ở Việt Nam. Vấn đề biểu tượng trong sáng tác của Murakami được nhắc đến trong nhiều bài viết nhưng đi phân tích chuyên sâu về biểu tượng một cách hệ thống thì vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đáng chú ý.

Nguyễn Anh Dân có nhiều bài nghiên cứu về tiểu thuyết Murakami, trong đó có vấn đề biểu tượng. Trong Yếu tố huyền ảo trong sáng tác Haruki Murakami, tác giả chú ý đến cảm quan huyền ảo, đồng thời quan tâm đến thế giới biểu tượng mà Murakami xây dựng trong tác phẩm: “Thế giới biểu tượng trong sáng tác Murakami đa dạng và phức tạp, nó trải dài trên các bình diện không gian, thời gian, nhân vật đến cấu trúc, kết cấu” [16,45]. Tác giả khảo sát âm nhạc, một đặc trưng trong tiểu thuyết Murakami, góp phần tạo ra nhịp điệu và những dụng ý nghệ thuật cụ thể: “Âm nhạc xuất hiện như một diễn giả trong tác phẩm của Murakami nhưng quan trọng hơn cả chúng can dự một cách sâu sắc đời sống của nhân vật, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng có cơ duyên với cái huyền ảo. Thế giới của âm nhạc là một thế giới khó đoán định, thăng trầm bất ngờ cũng giống như bản chất của thế giới huyền ảo: nhân vật dễ đắm chìm vào mà khó thoát ra” [16,56].

Trong Hệ thống biểu tượng trong “Biên niên kí chim vặn dây cót”, Nguyễn Anh Dân đã giải mã một số biểu tượng trong tiểu thuyết Biên niên kí chim vặn dây cót. Đây là bài viết có những phân tích khá sâu, góp phần cung cấp một số gợi mở trong việc nghiên cứu biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami. Tác giả cho rằng không chỉ đồ vật, con vật, hiện tượng mang tính biểu tượng mà “mỗi nhân vật là một biểu tượng – trước hết là biểu tượng cho chính mình. Trong thế giới nhân vật


ấy, có những con người biểu tượng cho quyền lực, cho nhục dục như Wataya Noboru, có những con người biểu tượng cho nỗi nhục quá khứ như Mamiya” [17].

Bài viết Sự xóa nhòa ranh giới trong hiện thực và siêu thực trong tiểu thuyết Murakami (2012) là một tiểu luận khá công phu, có những luận giải thuyết phục khi tìm hiểu cách nhà văn xây dựng những thế giới song song, đan cài giữa thực - ảo. Điểm đáng chú ý ở bài viết là tác giả đã tập trung phân tích các biểu tượng: “cái bóng”, “cái giếng” và “âm nhạc” nhằm làm rò cách sử dụng biểu tượng để tạo nên những thế giới thực ảo lẫn lộn trong tiểu thuyết của Murakami [79].

Biểu tượng cổ mẫu và thực tại phức diện qua tiểu thuyết Murakami Haruki của Nguyễn Bích Nhã Trúc là bài nghiên cứu khá công phu, cung cấp những luận giải khá rành mạch về nghệ thuật sử dụng biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami. Tác giả tìm hiểu ba biểu tượng cổ mẫu tiêu biểu trong sáng tác của Murakami là: cái bóng, phức cảm Oedipus linh hồn. Nhã Trúc kết luận: “Với những biểu tượng văn hóa cổ mẫu trong tác phẩm, Murakami đã khơi dậy những vô thức tập thể của nhân loại, phản ánh chân thực sự đa chiều, phức diện trong đời sống tinh thần của con người hiện đại” [81].

Nghiên cứu tiểu thuyết Murakami dưới góc nhìn kí hiệu học cũng nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Bài viết Mã văn hóa Nhật qua biểu tượng trong “Biên niên kí chim vặn dây cót” của Murakami của Lương Hải Vân tìm hiểu mã văn hóa xứ Phù Tang qua việc khảo sát các biểu tượng: nước, chim vặn dây cót giấc mơ cùng mặc cảm về cái chết như các biểu tượng tâm thức Nhật Bản đặc trưng. Qua việc khảo sát những biểu tượng này, tác giả muốn làm rò sự kế thừa tâm thức dân tộc của nhà văn Murakami trong tác phẩm của mình [61,457].

Gần đây, trong chuyên luận Nhà văn Nhật Bản thế kỉ XX (2018), Đào Thị Thu Hằng đã chú ý đến các biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami. Tác giả tập trung đến hai biểu tượng chính là “cái giếng” và “mèo” rồi đi đến kết luận: “Thế giới biểu tượng trong truyện ngắn Murakami, dù là vật hay con vật thì vẫn luôn gắn liền với hình ảnh con người hậu hiện đại với nhiều đổ vỡ nghiêm trọng trong đời sống tinh thần. Nó là biểu trưng cho những mất mát, những vấn đề ai cũng có thể một lần trong đời phải đối mặt. Hãy tự tìm cách xoay xở để vượt lên chính mình, đó chính là thông điệp mà tác giả gửi gắm qua các biểu tượng này” [29,249].

Điểm qua các công trình trên, chúng tôi nhận thấy tuy các nhà nghiên cứu Việt Nam chưa tập trung khảo sát biểu tượng của Murakami một cách hệ thống, nhưng những khảo sát và kiến giải các biểu tượng cơ bản trong tiểu thuyết Murakami là những gợi mở vô cùng quan trọng để chúng tôi lấy làm cơ sở để thực hiện đề tài.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/06/2022