cái tội giết con mà tội nghiệp. Cô thử nghĩ xem, ai giết con tôi? Ai giết?” [41, 119]. Phản ứng quyết liệt và mạnh mẽ là cách mà Loan chống trả lại sự áp chế của mẹ chồng. Ban đầu còn nhẫn nhịn mong dung hòa với gia đình, nhưng mọi sự cố gắng của cô đều vô nghĩa, bởi bà Phán luôn có thành kiến với Loan và cho rằng cô cậy mình có học chỉ nhiễu sự hay cãi lý. Sức chịu đựng của con người chỉ có giới hạn và đã đến lúc Loan nhận ra mình không thể chịu đựng hơn được nữa, nàng đã có cái ý tưởng rằng: “Hễ người ta còn dễ bắt nạt, thì người ta còn bắt nạt mãi, và muốn cho người ta vị nể mình, thì không gì hơn là chống cự lại” [41, 142]. Mâu thuẫn với gia đình chồng ngày càng căng thẳng không cách nào dung hòa được, sự chịu đựng bấy lâu của Loan giờ đã bùng lên thành ngọn lửa phản kháng mãnh liệt. Cuộc đụng độ nảy lửa đã diễn ra quyết liệt và hậu quả của nó là cái chết của Thân. Bị xúc phạm, đánh đập thậm tệ, Loan như con thú bị thương tìm mọi cách quẫy đạp mong thoát khỏi bàn tay cưỡng chế, đàn áp của gia đình:
“- Ai dạy ai? Động một tý là dạy. Tôi không cần ai dạy tôi. Thân cầm cái gối lăm le ném vào Loan:
- Phải có thế mới là đồ mất dạy. Loan đáp:
- Mất dạy là đánh người đàn bà yếu ớt, hèn nhát một lũ…mẹ chồng Loan hung hãn lao vào, vội tới mức đi chân đất vào buồng.
- Mợ nói gì thế?... Mày nói gì thế con kia?... Bà đánh mày một cái tát xem mày bảo hèn nhát nữa hay không” [41, 143].
Nhân phẩm, danh dự bị chà đạp, Loan đã thẳng thắn tuyên bố: “Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi” [41, 143], nàng vuốt tóc ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt mẹ chồng mà nói: “Bà cũng là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai” [41, 144]. Qua những lời nói và hành động đã chứng tỏ được bản lĩnh của Loan, cô không chỉ đơn
thuần là một nhân vật lãng mạn, yếu đuối, không phải chỉ có tính cách mộng mơ, ủy mị chỉ luôn đắm chìm trong nỗi buồn vô cớ. Người đọc còn nhận thấy ở Loan một bản lĩnh vững vàng, nhận thức được những nguyên nhân gây ra nỗi khổ cho mình, biết vượt qua hoàn cảnh, vượt qua chính mình và tự tạo dựng cho mình một cuộc sống tự lập.
ở bất cứ thời đại nào, con người cũng luôn mơ ước có một cuộc sống tự do, đầy đủ, hạnh phúc. Những người phụ nữ tiến bộ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng mang trong mình niềm mơ ước, khát khao cháy bỏng ấy. Vì thế họ đã dũng cảm đấu tranh với lễ giáo phong kiến khắc nghiệt, tàn bạo. Họ là lớp người đầu tiên dám nghĩ, dám nói, dám làm, có hành động đấu tranh quyết liệt với hệ tư tưởng lỗi thời và bảo thủ của giai cấp phong kiến. Các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã thực sự thành công khi miêu tả, phản ánh đời sống tâm tư, tình cảm và ước vọng của người phụ nữ trong chế độ đại gia đình. Đây chính là một yếu tố tích cực góp phần giải quyết những vấn đề xã hội có tính thời sự lúc bấy giờ. Và những vấn đề tiến bộ mà các tác giả Tự lực văn đoàn đã đặt ra thông qua hệ thống nhân vật nữ của họ sẽ còn có giá trị mãi với thời gian.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhân Vật Đại Diện Cho Nền Luân Lý Phong Kiến Cũ
- Nhân Vật Phụ Nữ Đấu Tranh Cho Hạnh Phúc Cá Nhân
- Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng - 9
- Nghệ Thuật Miêu Tả Tâm Lý Nhân Vật
- Miêu Tả Tâm Lý Nhân Vật Qua Ngôn Ngữ Đối Thoại
- Hiện Đại Hóa Trong Ngôn Ngữ Và Giọng Điệu
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Với ý thức dùng văn chương nghệ thuật như một thứ vũ khí đấu tranh chống lại cái cũ và cổ động cho cái mới, Nhất Linh và Khái Hưng đặc biệt chú trọng tới việc sáng tác tiểu thuyết luận đề để tuyên truyền, cổ vũ cho những tư tưởng tiến bộ. Tuy nhiên, cùng thể hiện một luận đề xã hội, nhưng Nhất Linh, Khái Hưng lại đi theo hai hướng khác nhau: “Muốn cho người ta ghét cũ, căm hờn chế độ đại gia đình, rấy loạn trước những lề luật cổ hủ, Khái Hưng không dùng chiến dịch đánh thẳng vào địch như Nhất Linh sau này. Ông làm cho người ta yêu mới” [34, 722]. Còn Nhất Linh lại cho rằng: “Cái khí giới ôn hòa của Khái Hưng chưa đủ hiệu lực để đánh đổ kẻ thù còn đang mạnh lắm. Ông
chủ trương phải tuyên chiến và đánh thẳng vào địch, hạ cho nó nằm xuống thì mới hòng cứu vãn được”[34, 723].
Các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã nhân danh chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng dân chủ, văn minh tiến bộ để chống lại những hủ tục lạc hậu, những kiềm tỏa của lễ giáo phong kiến, đấu tranh và bênh vực cho tình yêu, hôn nhân tự do, đặc biệt là yêu cầu giải phóng người phụ nữ thoát khỏi sự áp bức của chế độ đại gia đình. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn được thể hiện rõ nhất ở thái độ đả phá chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, ủng hộ khát vọng tự do yêu đương của thanh niên nam nữ đương thời. Các nhà văn, sau khi phơi bày những mặt trái, sự lạc hậu, vô nhân đạo của chế độ đại gia đình, đạo lý phong kiến, đã lên tiếng bênh vực và bảo vệ quyền tự do cá nhân, ủng hộ lý tưởng và sự đấu tranh của lớp thanh niên thời đại mới. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, Khái Hưng đã thể hiện xung đột gay gắt giữa hai luồng tư tưởng mới – cũ trong xã hội. Đó là một cuộc xung đột không khoan nhượng, khác hẳn với thái độ lừng chừng, nước đôi trong Tố tâm.
Chương 3:
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG ĐOẠN TUYỆT VÀ NỬA CHỪNG XUÂN
3.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện và kết cấu
Cốt truyện trong tác phẩm tự sự là sự miêu tả một cách nghệ thuật các sự kiện, hoạt động trong đời sống nhân vật diễn ra trong không gian và thời gian. Ngoài ra, các mối liên hệ bên ngoài, có tính chất thời gian và nhân quả giữa các sự kiện được miêu tả còn có các mối liên hệ bên trong, mang ý nghĩa và cảm xúc tạo thành phạm vi kết cấu của cốt truyện.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa về cốt truyện như sau: cốt truyện là: “Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và yêu cầu nghệ thuật, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [19, 99].
Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm (chủ đề tư tưởng và tính cách, tính cách và hoàn cảnh) và các yếu tố khác thuộc hình thức (bố cục, hệ thống ngôn ngữ, nhịp điệu…).
Việc tổ chức kết cấu có quan hệ mật thiết với việc xây dựng cốt truyện: việc liên kết hệ thống chủ đề và hệ thống tính cách, hệ thống tính cách và hệ thống sự kiện càng hoàn thiện bao nhiêu sẽ làm cốt truyện càng chặt chẽ bấy nhiêu, và ngược lại, cốt truyện càng chặt chẽ càng có ảnh hưởng tốt đến kết cấu chung.
Khi nhận xét về kết cấu và cốt truyện của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, các nhà nghiên cứu đều có chung những ý kiến đánh giá giống nhau. Họ cho rằng lối kết cấu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã linh hoạt, tự nhiên hơn, có nhiều cách tân: “Bỏ lối kết thúc có hậu trong truyện” [13, 297].
3.1.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện:
Cốt truyện trong các tác phẩm văn học hết sức đa dạng và phức tạp. Nó là kết tinh truyền thống dân tộc, nó phản ánh thành tựu văn học ở mỗi thời kỳ lịch sử, đồng thời thể hiện được phong cách và tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Trong văn học Trung đại, sự hấp dẫn của một tác phẩm trước hết là ở cốt truyện có nhiều tình huống kịch tính, éo le, những chi tiết hoang đường kỳ ảo. Nhà văn sử dụng cốt truyện để thay thế cho việc miêu tả tính cách nhân vật nên cốt truyện đóng vai trò quyết định sự thành bại của một tác phẩm.
Đầu thế kỷ XX, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh dù đã có những bước tiến mới trong nghệ thuật, song về cơ bản cốt truyện vẫn mang tính truyền thống. Nhà văn còn quá chú trọng tới cốt truyện với những hành động, sự kiện. Đến tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, mối quan hệ giữa cốt truyện và tính cách nhân vật đã có nhiều thay đổi. Tuy vẫn nắm giữ vị trí quan trọng nhưng cốt truyện không còn giữ vai trò chi phối tính cách nhân vật như trước, ngược lại nó còn chịu chi phối bởi sự phát triển của tính cách. Hơn thế cốt truyện trong các tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn còn phản ánh được những mâu thuẫn, xung đột có ý nghĩa xã hội sâu sắc, có sức mạnh lôi cuốn và hấp dẫn người đọc. Thông qua đó, nội dung nghệ thuật và tư tưởng chủ đề của tác phẩm được bộc lộ rõ nét.
Nếu như các tác phẩm truyện thơ ở thế kỉ XVIII chỉ chú trọng xây dựng một cốt truyện chặt chẽ, hô ứng, thời gian trong tác phẩm diễn tiến trên trục thời gian một chiều: “Thường bỏ qua những chi tiết bộn bề của cuộc sống, mà chỉ chú ý tới những sự kiện, hành động lớn trong cuộc đời nhân vật, các chi tiết nhiều khi chỉ có giá trị tượng trưng, ước lệ” [22, 137] thì tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã phá vỡ khuôn khổ của cốt truyện truyền thống. Các tác phẩm không còn đi theo trình tự thời gian của cốt truyện cổ mà đã đi thẳng vào vấn
đề một cách đột ngột rồi kết thúc một cách bất ngờ. Truyện có thể bắt đầu từ một quãng đời bất kỳ của nhân vật.
Hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuâncủa Khái Hưng đều lấy cốt truyện từ cuộc đời những người phụ nữ bất hạnh trong chế độ đại gia đình phong kiến. Mỗi nhân vật một tính cách, một số phận riêng song tất cả đều nhằm nói lên thân phận đáng thương của những người phụ nữ trong chế độ đại gia đình. Tác phẩm là tiếng nói đanh thép tố cáo tính chất vô nhân đạo của những quan niệm luân lý cổ hủ đã kìm hãm hạnh phúc cá nhân, chà đạp lên quyền sống tự do của con người.
Không sử dụng cốt truyện ly kỳ hấp dẫn mà lấy nhân vật làm trung tâm của tác phẩm, Nhất Linh và Khái Hưng đã đi sâu vào miêu tả những chi tiết tưởng chừng như rất đơn giản trong bộn bề cuộc sống thường ngày nhằm làm nổi bật tính cách, số phận của nhân vật. Cốt truyện trong Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân không đơn thuần là những sự kiện, hành động mà bao gồm cả quá trình diễn biến tâm lý quanh co, phức tạp trong tâm hồn nhân vật. Các sự kiện trong hai cuốn tiểu thuyết nói trên có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn cho dòng chảy tâm lý và định hướng cho hành động của nhân vật.
Sự đổi mới mà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang đến cho văn học Việt Nam hiện đại thể hiện trước hết ở việc cách tân cốt truyện truyền thống của văn học trung đại. Không sử dụng cốt truyện có sẵn trong văn học dân gian hay mượn cốt truyện từ văn học Trung Quốc, các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã lấy cốt truyện từ trong chính hiện thực cuộc sống và dùng hư cấu nghệ thuật để xây dựng nên những tác phẩm đặc sắc, có giá trị về mặt tư tưởng. Cốt truyện của Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân đều mang luận đề xã hội. Các tác giả đã mượn cốt truyện và nhân vật để chứng minh cho luận đề mà mình đặt ra. Tự lực văn đoàn đã nâng tiểu thuyết luận đề lên thành một loại quan trọng là một sự cách tân, hiện đại. Vì chỉ có ở văn học hiện đại tiểu
thuyết luận đề mới được coi trọng và phát triển. Thời điểm Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân ra đời là thời điểm có sự chuyển hóa sâu sắc về ý thức hệ và quan niệm thẩm mĩ. Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân là những tiểu thuyết luận đề tiêu biểu của Tự lực văn đoàn vừa thể hiện được quan điểm tiến bộ của nhà văn về văn chương, cuộc sống vừa là sản phẩm tinh thần của thời đại.
Là cây bút tiểu thuyết tài năng, Khái Hưng đã có nhiều sáng tạo và cách tân trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Đi sâu vào khai thác sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa những nhân vật mang tính lý tưởng đại diện cho lớp thanh niên có tư tưởng tiến bộ với những bậc cha mẹ cổ hủ, lạc hậu – con đẻ của nền luân lý phong kiến lỗi thời. Trong Nửa chừng xuân, nhà văn đã đưa ra quan niệm sống hết sức mới mẻ, hiện đại. Tác phẩm là sự kết tinh, tổng hợp giữa nghệ thuật tiểu thuyết truyền thống phương Đông và nghệ thuật hiện đại của phương Tây. Khái Hưng đã xây dựng cốt truyện Nửa chừng xuân theo lối mở: “Ông dường như muốn chối bỏ những cốt truyện viết theo lối chương hồi, nệ cổ, vay mượn, khuôn sáo. Ông không lựa chọn những tình tiết ly kỳ, ngoắt ngoéo, những giải kết đột ngột, gay gắt, dồn dập. Truyện của tác giả giản dị, gần gũi, lấy từ đời thật, linh hoạt và có bố cục chặt chẽ, hợp lý” [68, 152]. Cốt truyện tác phẩm được xây dựng trên những biến cố của cuộc đời nhân vật Mai, nó hấp dẫn người đọc bởi tình huống éo le mà không hề xa lạ. Tác phẩm đã miêu tả quá trình xung đột giữa hai phe cũ – mới, giữa trẻ và già, giữa cha mẹ và con cái về quyền tự do cá nhân, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của thế hệ trẻ. Hệ thống nhân vật trong tác phẩm rất đa dạng, lớp thanh niên có tư tưởng mới chiếm số lượng đông đảo và có thể nói là áp đảo trong toàn bộ tác phẩm. Những trí thức Tây học như: Lộc, Huy, Trọng, bác sĩ Minh, họa sĩ Bạch Hải hay những cô gái mới như Mai, Diên có những quan niệm hết sức tiến bộ về vấn đề hôn nhân và tình yêu. Lộc đã bất chấp quan niệm môn đăng hộ đối, bất chấp khoảng cách về địa vị, tiền tài để đến với
Mai, một cô gái quê nghèo khó. Họ yêu nhau say đắm và cùng xây “lâu đài” mộng ước về một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hay bác sĩ Minh, họa sĩ Bạch Hải luôn sẵn sàng đón nhận Mai bất chấp thân phận cô nghèo hèn lại đã bỏ chồng và có một đứa con. Với họ tình yêu sẽ đem lại một cuộc sống hạnh phúc. Hay chính bản thân Mai dù biết rằng người đến hỏi không phải mẹ Lộc nhưng vì lòng biết ơn, vì tình yêu sâu nặng cô vẫn chấp nhận làm vợ Lộc. Dù xuất hiện không nhiều trong tác phẩm song nhân vật Trọng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi tính cách cương trực thẳng thắn của anh. Là một trí thức có tự trọng, sống có tình có nghĩa, chàng đã không vì địa vị tiền tài mà chối bỏ nguồn gốc xuất thân, chối bỏ người chị đã vì mình mà phải sống trong cảnh nhơ nhớp bị cả xã hội coi khinh. Tất cả những con người đó, mỗi người một hoàn cảnh, một số phận nhưng họ đều có chung một quan niệm sống. Đó là ý thức về cái tôi cá nhân, cùng khát khao được sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc. Họ nhận thức rõ sự đối nghịch của mình với thế hệ cũ và hiểu rằng giờ đây thế hệ họ không thể bước chung trên một con đường với lớp cha anh: “Cụ tức là biểu hiện, tức là người đại diện cho một nền luân lý cũ. Mà tâm trí chúng cháu đã trót nhiễm những tư tưởng mới. Hiểu nhau khó lắm thưa cụ. Cụ với bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông cùng một nguồn, cùng chảy ra bể nhưng mỗi đằng chảy theo một phía dốc bên sườn núi, gặp nhau sao được” [25, 227].
Kết thúc truyện cổ bao giờ cũng là cái kết có hậu với cốt truyện đơn tuyến kể về cuộc đời một nhân vật chính. Còn trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Khái Hưng đã mở ra những tuyến nhân vật phụ, những mảnh đời riêng của nhiều nhân vật nhằm làm nổi bật tính cách của nhân vật chính. Cốt truyện Nửa chừng xuân có tính chất đa tuyến, không chỉ kể về chuyện tình giữa Mai
– Lộc, tác giả còn miêu tả cuộc sống, số phận của những nhân vật khác. Đó là chuyện về một cụ Hàn với ba bà vợ mà vẫn tìm mọi thủ đoạn ép Mai về làm