Các Vấn Đề Hạn Chế Của Khung Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Xã Hội

hội, thì số dư tài sản hoặc tài chính còn lại đối với nguồn tài sản, tài chính do các tổ chức trong nước và ngoài nước hoặc do Nhà nước mà doanh nghiệp xã hội đã nhận được để thực hiện các mục tiêu xã hội sẽ phải được chuyển cho các doanh nghiệp xã hội khác hoặc tổ chức khác có mục tiêu xã hội tương tự. Sau khi thanh toán hết nợ của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải gửi hồ sơ về giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng kí kinh doanh. Cơ quan đăng kí kinh doanh phải xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh trong thời hạn luật định kể từ ngày nhận được hồ sơ về giải thể doanh nghiệp.

Phá sản là hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó hiện hữu như là một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường, bất kể đó là nền kinh tế thị trương phát triển ở các nước trên thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Pháp luật về phá sản có thể được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản của doanh nghiệp, HTX. Thủ tục phá sản doanh nghiệp, HTX bao gồm: (1) nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; (2) phục hồi hoạt động kinh doanh; (3) tuyên bố doanh nghiệp, HTX bị phá sản; (4) Thanh lý tài sản, các khoản nợ. Tuy nhiên, không phải bất cứ một vụ phá sản nào cũng phải trải qua đầy đủ các bước trên. Thực tế là tuỳ từng trường hợp, mà một vụ phá sản có khi chỉ có bước thứ nhất mà thôi.

Đối với DNXH việc thực hiện mục tiêu xã hội là vô cùng quan trọng, đồng thời là giá trị cốt lõi, là động lực phát triển của DNXH. Chính vì vậy, quá trình chia tách, hợp nhất, giải thể, sáp nhập của DNXH phải mang tính đặc thù cao hơn doanh nghiệp thông thường. Việc chia tách, hợp nhất, sáp nhập đối với các DNXH được thực hiện theo từng dạng nhất định như:

- DNXH được chia hoặc được tách thành DNXH. Đây là trường hợp

thông thường và đơn giản vì nó được tiến hành như các trường hợp chia, tác doanh nghiệp thông thường khác.

- Các doanh nghiệp, doanh nghiệp xã hội hợp nhất thành DNXH. Đây cũng là trường hợp thông thường, bởi lẽ mục tiêu xã hội của DNXH đó vẫn còn khi được hợp nhất bởi các DNXH hoặc doanh nghiệp khác với DNXH thành DNXH.

- Các doanh nghiệp, doanh nghiệp xã hội sáp nhập vào doanh nghiệp xã hội. Đối với trường hợp này thủ tục, trình tự cũng được tiến hành tương tự như đối với các trường hợp sáp nhập thông thường.

- Trường hợp giải thể DNXH mang tính đặc thù, bởi lẽ không giống như giải thể các doanh nghiệp thông thường khác. Đối với doanh nghiệp xã hội việc giải thể phải tính đến yếu tố tài sản của doanh nghiệp này. Trong trường hợp giải thể DNXH, số dư tài sản hoặc tài chính của doanh nghiệp còn lại đối với nguồn tài sản, tài chính mà DNXH đã nhận phải được trao trả lại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã viện trợ, tài trợ hoặc chuyển cho các DNXH khác. Bởi vì, trong cơ chế quản trị của DNXH thì nguồn tài sản của doanh nghiệp ngoài nguồn vốn đầu tư của chủ DNXH thì phần quan trọng còn lại là đóng góp, ủng hộ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Mục tiêu của các khoản ủng hộ, tài trợ này để nhằm hỗ trợ DNXH thực hiện các mục tiêu xã hội, mục tiêu công cộng khác nhau. Chính vì vậy khi không còn hoạt động nữa, phần tài sản này phải được trả lại hoặc chuyển cho các DNXH để nhằm thực hiện đúng mục đích của nó. Đồng thời cũng tránh tình trạng lợi dụng việc thành lập DNXH kêu gọi tài trợ, viện trợ sau đó giải thể để trục lợi.

2.2. Các vấn đề hạn chế của khung pháp luật về doanh nghiệp xã hội

Cho đến thời điểm này, chưa có một văn bản pháp quy nào được ban hành để hướng dẫn các cơ quan chức năng và DNXH thực hiện các quyền và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

nghĩa vụ mà Nhà nước trao cho. Hiện tại có những vấn để pháp lý liên quan trực tiếp đến DNXH cần phải làm rõ như sau:

2.2.1. Về hình thức pháp lý và phân loại doanh nghiệp xã hội

Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam - 8

Hiện nay, phân tích quy định về DNXH và doanh nghiệp truyền thống, cũng như cách phân loại về DNXH cũng đã cho thấy những bất cập nhất định. Theo đó, việc quy định doanh nghiệp xã hội phải là doanh nghiệp là sự mâu thuẫn về bản chất của loại hình doanh nghiệp này. Doanh nghiệp được hiểu là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng kí thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh theo quy định của Luật thương mại thì doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh, tức chuyên thực hiện nhiệm vụ kinh doanh để mang về lợi nhuận cho thương nhân. Khái niệm kinh doanh trong kinh tế học được hiểu là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, mục đích sinh lợi là đặc điểm nổi bật để phân biệt giữa doanh nghiệp và tổ chức nói chung. Mục đích này đã được đặt ra khi các nhà đầu tư có ý tưởng thành lập doanh nghiệp. Như vậy, đã coi là doanh nghiệp thì mục đích kinh doanh, mục tiêu thu lợi nhuận là yêu cầu bắt buộc. Doanh nghiệp xã hội cũng là tổ chức nhưng được thành lập nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và doanh nghiệp phải duy trì mục tiêu này trong suốt quá trình hoạt động. Điều này có nghĩa, mục tiêu lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của doanh nghiệp xã hội hay nói cách khác, doanh nghiệp xã hội là tổ chức kinh doanh nhưng phi lợi nhuận. Đây là điểm mấu chốt để phân biệt DNXH với các doanh nghiệp truyền thống, yếu tố không tối ưu hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư là một đặc điểm nổi bật của DNXH. Do đó, một doanh nghiệp thông thường dù thực hiện trách nhiệm xã hội cao đến đâu cũng không thể là doanh nghiệp xã hội bởi sự khác biệt rất rõ ràng về bản chất và

mục đích của chủ sở hữu doanh nghiệp khi thành lập. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một phạm trù tiếp cận hoàn toàn khác. Theo đó, thì đối với bất kỳ doanh nghiệp cho dù là doanh nghiệp truyền thống, có mục đích tối ưu hóa lợi nhuận cũng đều có thể có trách nhiệm xã hội ít nhiều. Quy định của pháp luật hiện hành tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tạo ra sự mâu thuẫn trong nội hàm khái niệm doanh nghiệp xã hội, tính chất quan trọng nhất của doanh nghiệp xã hội là phi lợi nhuận không được làm nổi bật bởi bản thân khái niệm doanh nghiệp đã chứa đựng tính chất lợi nhuận.

Bên cạnh đó, về loại hình doanh nghiệp mà DNXH lựa chọn chỉ có thể là các loại hình được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định. Theo đó, tất cả các DNXH đều phải đăng ký hoạt động dưới một trong các hình thức công ty hoặc doanh nghiệp tư nhân. Tức là các mô hình doanh nghiệp tương tự như các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận khác. Nói cách khác Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ công nhận loại hình DNXH “không vì mục tiêu lợi nhuận” ở Việt Nam. Doanh nghiệp này có những điểm rất đặc thù về tổ chức và hoạt động do đó, nếu áp dụng nguyên mẫu mô hình doanh nghiệp nói chung sẽ rất khó khăn trên thực tế. Bởi vì việc tổ chức và quản trị của các doanh nghiệp truyền thống được nhà làm luật thiết kế cho để đảm bảo yếu tố tối đa hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư. Còn đối với DNXH thì phải cần yếu tố về hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên cách thiết kế mô hình hoạt động như vậy sẽ rất khó khăn trọng việc đảm bảo tính chất căn bản của DNXH. Việc quy định như tại Luật Doanh nghiệp tuy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quản lý nhà nước về doanh nghiệp, nhưng lại gây ra một sự xáo trộn lớn trong cộng đồng DNXH bởi lẽ có một số lượng các DNXH thực tế đang tồn tại dưới các hình thức linh hoạt có tính tương tác cao như các HTX, các tổ chức phi chính phủ, trung tâm, hiệp hội, câu lạc bộ, quỹ… sẽ phải giải quyết rất nhiều vấn đề về vốn, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động để

chuyển đổi thành các công ty. Quá trình này có thể gây gián đoạn cho các hoạt động thường xuyên của DNXH dẫn đến thiếu hụt về nguồn thu, đặc biệt là các khoản viện trợ. Tác động rõ nét nhất là việc các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp xã hội đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều đơn vị không chuyển đổi được đã phải giải thể hoạt động. Cũng chính vì vậy, các tổ chức hoạt động như các DNXH ở Việt Nam hiện nay thường được tổ chức và hoạt động theo các quỹ, các trung tâm hơn là các loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật doanh nghiệp.

Thêm nữa, DNXH chịu ảnh hưởng rất lớn bởi xu hướng hoạt động xã hội của các cá nhân sáng lập (các doanh nhân xã hội), việc gò bó DNXH dưới hình thức công ty sẽ giảm tính linh hoạt và khả năng sáng tạo, khả năng nắm bắt các nhu cầu của cộng đồng của các doanh nhân tâm huyết với việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Hệ quả của quy định này là làm hạn chế các sáng kiến xã hội, khả năng đóng góp cho xã hội và hạn chế quyền tự do lựa chọn phương thức kinh doanh của các doanh nhân xã hội trong quá trình thực hiện mục tiêu phục vụ lợi ích cộng đồng [24].

2.2.2. Về huy động và quản lý vốn đến từ nguồn tài trợ nước ngoài

Việc huy động vốn từ các nguồn tài trợ, trong đó có nguồn tài trợ từ nước ngoài là động lực chủ yếu cho việc hoạt động và phát triển của các DNXH ở Việt Nam hiện này. Theo quy định của Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì “Được huy động và nhận tài trợ dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp” [18]. DNXH được phép nhận những khoản tài trợ từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước để tiến hành các hoạt động xã hội. Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về Quy chế quản lý và sử dụng các nguồn

vốn viện trợ phi Chính phủ nước ngoài thì, đối với mỗi một khoản tài trợ phi chính phủ sẽ phải thành lập một ban quản lý dự án tương ứng ngay tại DNXH để quản lý nguồn tài trợ. Quy định như trên có ưu điểm là quản lý được một cách chặt chẽ các hoạt động nhận viện trợ, tài trợ từ nước ngoài. Nhưng mặt khác nếu làm như vậy sẽ tạo ra bộ máy quản lý doanh nghiệp trở nên cồng kềnh, phức tạp, kém tính năng động tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn và cũng trái với nguyện vọng của nhà tài trợ là trợ giúp vốn để DNXH đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Nên chăng đối với DNXH có tài trợ từ tổ chức phi chính phủ nước ngoài chỉ cần có một bộ phận chuyên quản lý, giám sát tất cả các nguồn tài trợ và chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp trong việc sử dụng có hiệu quả những nguồn tài trợ này là hợp lý nhất.

2.2.3. Về thực hiện chính sách phát triển đối với doanh nghiệp xã hội

Với khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề về nhu cầu an sinh xã hội trong cộng đồng, các DNXH xứng đáng được hưởng các ưu đãi để phát triển. Bởi vậy cần phải làm rõ những quy định về các mức ưu đãi đối với đầu tư thành lập DNXH, đặc biệt là chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, bảo vệ môi trường… theo quy định của pháp luật. Ngoài ra cần phải có chính sách miễn thuế thu nhập tương ứng với khoản lợi nhuận lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp giữ lại để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký.

Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành chỉ có quy định: Miễn thuế đối với phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó theo quy định của luật chuyên ngành về lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác; phần thu nhập hình thành tài sản không chia của hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định

của Luật Hợp tác xã. Hiện hành mới có Luật Giáo dục đại học quy định cụ thể về phần thu nhập không chia của cơ sở giáo dục đại học tư thục. Vậy việc xác định phần thu nhập không chia dùng để tái đầu tư của các cơ sở xã hội hóa trong khi các luật chuyên ngành chưa có quy định thì sao? Vậy việc tính thuế đối với phần thu nhập không chia của DNXH, hay việc xác định thu nhập không chia của các cơ sở xã hội hóa hiện hành và DNXH hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn, điều này cũng gây cản trở sự phát triển của loại hình DNXH theo quy định của Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13.

2.2.4. Về khung khổ pháp lý cho doanh nghiệp xã hội hoạt động

Về khung pháp lý: Mặc dù đã được nhìn nhận chính thức là một lực lượng quan trọng trong việc phát hiện và giải quyết những vấn đề về an sinh xã hội cho cộng đồng, làm giảm bớt áp lực kinh tế - xã hội cho Nhà nước bằng những biện pháp đa dạng hóa và huy động các nguồn lực của xã hội vào kinh doanh, DNXH sẽ khó có thể phát triển bền vững và hiệu quả nếu không có những chế định pháp luật đặc thù điều chỉnh. Cho đến nay, chưa có một khung khổ pháp lý rõ ràng để điều tiết hoạt động của các tổ chức phi chính phủ/xã hội dân sự ở Việt Nam. Các văn bản dưới luật riêng lẻ liên quan đến các yếu tố khác nhau của xã hội dân sự mới được ban hành gần đây. Tuy nhiên, các quy định rời rạc trên chưa tạo thành một khuôn khổ pháp lý rõ ràng và đầy đủ cho việc hình thành và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ/ các tổ chức thuộc xã hội dân sự. Luật về Hiệp hội đã thảo luận từ hơn 10 năm nay nhưng vẫn chưa hoàn thiện. Điều này cũng cho thấy rằng vấn đề độc lập của các tổ chức chính trị xã hội vẫn còn mang tính nhạy cảm về chính trị. Trong hoàn cảnh hiện tại cần có một nghị định riêng của Chính phủ tập trung vào hướng dẫn thi hành Điều 10 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 là điều hợp lý; nhưng trong tương lai, khi khối DNXH đã đủ lớn mạnh, nên có một một đạo luật riêng về khuyến khích hỗ trợ DNXH.

Một đạo luật riêng cho DNXH sẽ góp phần giải quyết những vấn đề đặc thù cho DNXH như quy định bộ quy tắc quản trị riêng để đảm bảo cho DNXH luôn thực hiện mục tiêu xã hội đặt ra. Việc hiện nay chúng ta sử dụng mô hình tổ chức, hoạt động và quản trị của các doanh nghiệp truyền thống khác cho DNXH là một bất cập. Bởi lẽ hai mô hình doanh nghiệp này hoàn toàn khác nhau và cũng khác về mục đích hoạt động. Chính vì vậy, việc xác định rõ mô hình tổ chức, hoạt động và quản trị của DNXH là một yếu tố đầu tiên để thúc đẩy sự phát triển của DNXH, đảm bảo doanh nghiệp này luôn thực hiện được các mục tiêu xã hội đã đặt ra.

2.2.5. Về các thiết chế hỗ trợ doanh nghiệp xã hội

Về các thiết chế hỗ trợ DNXH: Theo kinh nghiệm phát triển DNXH ở Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, vai trò hỗ trợ của nhà nước là rất quan trọng [32]. Trong bối cảnh hiện tại ở Việt Nam, cần có một cơ quan chuyên trách về quản lý nhà nước đối với DNXH theo một trục thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Theo các mô hình này, cơ quan chuyên trách đó có thể đặt ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư và triển khai theo ngành dọc ở địa phương các cấp. Loại cơ quan này có chức năng vừa hỗ trợ chính sách vừa làm cầu nối giữa doanh nghiệp và chính quyền, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đầy đủ thông tin để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xã hội và phát triển doanh nghiệp. Đồng thời, đây cũng chính là cơ quan thực hiện các điều tra, nghiên cứu để làm tham mưu cho Chính phủ trong việc đưa ra những mô hình pháp lý để chuyển đổi một số DNCI của Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp có thu trong lĩnh vực ý tế, giáo dục như bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu ứng dụng… thành DNXH. Sự chuyển đổi này nếu thành công thực sự sẽ là những đòn bẩy kinh tế xã hiệu quả để cải cách khu vực công, góp phần tạo ra động lực và những lực lượng kinh tế mới cho một nền kinh tế thị trường bình đẳng lành mạnh và phát triển bền vững ở nước ta.

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 16/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí