Các Chỉ Tiêu Đo Lường Về Rrtd Của Ngân Hàng Thương Mại

yếu tố của quá trình kinh doanh như rò rỉ chất xám, mối liên kết trong kinh doanh với các ngân hàng khác bị thu hẹp, đảo lộn thành quả hoạt động nhiều năm của một ngân hàng. Nếu rủi ro ở mức độ trầm trọng ngân hàng sẽ mất khả năng chi trả hoàn toàn và có nguy cơ bị phá sản. Do đó, RRTD là vấn đề sống còn của các NHTM.

- Hậu quả đối với khách hàng

Khi một khoản tín dụng cấp ra mà ngân hàng không thu lại được đầy đủ và đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả của ngân hàng. Vì vậy, quyền lợi của những khách hàng gởi tiền bị ảnh hưởng, khách hàng đến rút tiền sẽ không được đáp ứng kịp thời, đầy đủ. Thậm chí có nguy cơ, khách hàng sẽ bị mất khoản tiền đã gởi. Đối với những khách hàng vay, RRTD của ngân hàng buộc ngân hàng phải áp dụng chính sách tín dụng thắt chặt, thu hẹp quy mô tín dụng của mình. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của khách hàng nên việc mở rộng kinh doanh, phát triển doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, rủi ro TDNH sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến mọi doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực cũng như mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.

- Hậu quả đối với nền kinh tế-xã hội

Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính xã hội cao, vì vậy, khi một ngân hàng suy yếu do hậu quả của RRTD, sẽ dễ dàng tạo ra phản ứng dây chuyền đối với các ngân hàng, các định chế tài chính khác, dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.

Tóm lại, nguy cơ và mức độ thiệt hại do RRTD của ngân hàng gây ra thật là to lớn. Không những vậy, RRTD của ngân hàng lại mang tính hệ thống. Do đó, việc phòng ngừa và hạn chế RRTD của ngân hàng, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng an toàn là vấn đề vô cùng trọng đại, không chỉ là công việc thường xuyên và quan trọng của mỗi một ngân hàng riêng lẽ mà còn là vấn đề của toàn hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.

1.1.3. Các chỉ tiêu đo lường về RRTD của ngân hàng thương mại

Các khoản cho vay không thanh toán đúng hạn hay không thể thu hồi được gọi là nợ quá hạn (khoản cho vay có vấn đề) và đây chính là biểu hiện của RRTD. Nợ quá

hạn là khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay theo thoả thuận cộng với thời gian gia hạn thêm nếu khách hàng có yêu cầu. Có hai loại nợ quá hạn:

- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi. Là những khoản nợ mà người vay có khả năng vẫn tiếp tục trả nợ ngân hàng. Lý do của khoản nợ bị chậm trễ vì chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp mang tính thời vụ hoặc doanh nghiệp gặp rủi ro về thiên tai, hoả hoạn bất ngờ.

- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (nợ khó đòi, nợ xấu). Là khoản nợ mà người đi vay rất ít khả năng trả nợ ngân hàng, nhiều khả năng ngân hàng bị mất vốn. Lý do của khoản nợ này có thể là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản và không trả được nợ ngân hàng hoặc do người vay lừa đảo, cố tình chiếm dụng vốn ngân hàng.

Để đo lường RRTD của ngân hàng, thường sử dụng 2 chỉ tiêu chủ yếu như sau:

* Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ

Tỷ lệ quá hạn trên dư nợ phản ánh mối quan hệ so sánh giữa nợ quá hạn trên tổng số dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định và được tính theo công thức sau:


Tỉ lệ nợ =

Dư nợ quá hạn



Tổng dư nợ tín


Tỷ lệ nợ quá hạn thấp, biểu hiện RRTD của ngân hàng thấp vì nó phản ánh tỷ lệ các khoản vay không được trả đúng hạn hay không thu được trên các khoản cho vay của ngân hàng thấp, như vậy các kế hoạch của ngân hàng sẽ được thực hiện tốt. Ngược lại, RRTD của ngân hàng sẽ cao, nó sẽ ảnh hưởng đến chi phí, lợi nhuận và thanh khoản của ngân hàng.

* Chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ khó đòi phản ánh mối quan hệ so sánh giữa nợ khó đòi so với tổng số dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, tính theo công thức:



Tỉ lệ nợ =

Dư nợ khó đòi Tổng dư nợ tín


Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn chưa phải là căn cứ tin cậy để đánh giá mức độ rủi ro mà NHTM phải đối mặt. Chẳng hạn có những hợp đồng vay vốn do những nguyên nhân nào đó không thực hiện việc trả nợ kịp thời (đúng theo hợp đồng), nhưng ngân hàng vẫn có thể thu hồi đầy đủ số nợ này. Do vậy, để đánh giá chính xác hơn về mức độ rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi. Nếu tỷ lệ nợ khó đòi cao cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng có nguy cơ mất vốn cao, danh mục cho vay của ngân hàng có chất lượng thấp, hoạt động kinh doanh của ngân hàng không hiệu quả và nguy có phá sản cao.

Hai chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ khó đòi là thước đo chính xác đánh giá RRTD của ngân hàng. Khi hai chỉ tiêu này tăng, RRTD sẽ tăng, ngân hàng có thể đứng bên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, kết luận này chỉ đúng nếu như việc thu hồi nợ được tiến hành theo đúng nghĩa của nó. Đôi khi doanh số thu nợ không phản ánh số thực thu mà là con số giả tạo do ngân hàng tìm mọi cách để có nó, còn thực tế thì ngược lại. Ngân hàng có thể tự hợp thức hoá toàn bộ chứng từ sổ sách từ khâu thu nợ của hợp đồng cũ, lập hợp đồng mới cho vay lại, lập bảng kê thu chi tiền mặt, vào sổ nhật ký quỹ đầy đủ thì thật khó mà phát hiện ra những con số “giả thu, giả chi” đó. Thậm chí ngân hàng còn tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện “đảo nợ”. Ngoài ra, ngân hàng còn không chuyển nợ quá hạn đúng thời gian, gia hạn nợ nhiều lần không đúng quy định, tất cả những “giải pháp” không lành mạnh đó để nhằm mục đích cuối cùng là giữ nợ quá hạn luôn ở tỷ lệ thấp dưới mức quy định. Chính vì vậy, tỷ lệ nợ quá hạn thấp trong báo cáo của các ngân hàng chưa thực sự phản ánh thực trạng RRTD của ngân hàng.

Ngoài 2 chỉ tiêu quan trọng này, các ngân hàng thường dùng 2 chỉ tiêu sau để nói lên sự chuẩn bị của ngân hàng cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm từ thu nhập hiện tại, đó là:

* Chỉ tiêu tỷ lệ phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng trên tổng dư nợ.

* Chỉ tiêu tỷ lệ trích quỹ dự phòng tổn thất tín dụng trên tổng dư nợ.

1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng

Trên thực tế cho thấy, cùng thời gian, cùng môi trường kinh doanh, nhưng có những ngân hàng thì ăn nên làm ra, RRTD thấp và có được sự phát triển khá ổn định, nhưng cũng có những ngân hàng gặp phải muôn vàng khó khăn, luôn đứng trước nguy cơ đe dọa phá sản bởi những RRTD xảy ra dồn dập, liên tiếp. Các yếu tố chi phối đến RRTD của NHTM bao gồm:

- Chính sách tín dụng

Một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho danh mục tín dụng của NHTM an toàn là việc hình thành một “chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín dụng cung cấp cho CBTD và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Nội dung của chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn cho vay, lãi suất, mức lệ phí, các hình thức cho vay được thực hiện, tài sản thế chấp, khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết phần tín dụng quá hạn hay các khoản vay có vấn đề,... Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng mà nhà quản lý có thể bổ sung thêm một số yếu tố phù hợp. Chính sách tín dụng của ngân hàng sẽ giúp cho CBTD biết được họ phải làm gì và làm như thế nào khi thực hiện một khoản cho vay, trách nhiệm của họ tới đâu. Ngoài ra, chính sách tín dụng sẽ giúp ngân hàng đạt được một danh mục tín dụng đa mục đích như tăng khả năng sinh lợi, kiểm soát tiềm ẩn rủi ro và đáp ứng được các đòi hỏi từ phía nhà quản lý. Với chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt thì ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng và đảm bảo chất lượng của các khoản tín dụng. Ngược lại, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý thì ngân hàng rất khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.

- Chất lượng thẩm định và quy trình cho vay

Quá trình cho vay được bắt đầu từ khâu thẩm định cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay đến khi thu hồi được nợ. Thẩm định cho vay là khâu quan trọng nhất quyết định đến việc tăng hay giảm RRTD đối với mỗi khoản vay, làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề để cho việc thu hồi cả vốn và lãi khi đến hạn thanh toán, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh. Tuy nhiên, thẩm tín dụng khó đạt đến mức có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản vay có được hoàn trả đúng hạn

hay không, mặc dù mục đích của ngân hàng là chỉ thực hiện các khoản cho vay tốt nhưng phải thừa nhận là đã có sai lầm trong quá trình xét duyệt cho vay.

Khi quyết định cho vay, ngân hàng phải tính đến sự an toàn của vốn vay, khả năng hoàn trả vốn vay, khả năng sinh lợi của vốn tín dụng. Muốn vậy, phải thực hiện tốt quy trình cho vay, điều này sẽ hạn chế được điều bất lợi xảy ra và đảm bảo được độ an toàn của đồng vốn. Trên thực tế, nhiều khi ngân hàng đã không chấp hành đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy trình nghiệp vụ cho vay, như: Thực hiện không đầy đủ các nguyên tắc, thể lệ cho vay, không có khả năng hoặc sự phân tích các báo cáo tài chính chưa chính xác, xác định kỳ hạn các khoản cho vay không thích hợp, thiếu sự giám sát sau khi cho vay sẽ dẫn đến RRTD.

- Chất lượng của đội ngũ cán bộ

Con người có vai trò quan trọng, là yếu tố quyết định sự thành bại trong quản lý vốn, tài sản của ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển và đa dạng, sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, tiên tiến nên chất lượng của đội ngũ cán bộ phải đảm bảo có đủ đạo đức lẫn nghiệp vụ chuyên môn, có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học tiên tiến. Chất lượng cán bộ chính là khả năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học, trình độ hiểu biết về các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trình độ cán bộ quản lý điều hành và CBTD hạn chế sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thẩm định tín dụng, không đánh giá được chính xác hiệu quả vốn vay, không có biện pháp xử lý kịp thời khi có các tình huống bất lợi xảy ra.

Ngoài ra, đội ngũ cán bộ phải có đạo đức tốt, trong sáng, có tư cách, trách nhiệm, nhiệt tình làm việc... sẽ tránh tình trạng câu kết với khách hàng để lừa đảo, gây thiệt hại cho ngân hàng.

Tóm lại, với đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực cao, có đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp ngân hàng tạo được niềm tin nơi khách hàng và làm cho khách hàng ngày càng trở nên hiểu biết, gắn bó với ngân hàng hơn, từ đó, tránh được rủi ro trong quan hệ tín dụng.

- Thông tin tín dụng

TDNH chủ yếu dựa vào niềm tin, lòng tin có chính xác hay không phụ thuộc vào nội dung và chất lượng thông tin có được. Do vậy, thông tin tín dụng là yếu tố

quan trọng và không thể thiếu trong quyết định cấp và quản lý tín dụng. Tuy trên thị trường luôn tồn tại vấn đề thông tin không cân xứng, nhưng với việc tích cực tìm kiếm thông tin về khách hàng, ngân hàng sẽ có một nguồn thông tin tham khảo quý giá để ra quyết định cấp tín dụng hoặc biện pháp cần thiết liên quan đến việc theo dõi, quản lý, thu hồi nợ.

Yêu cầu thông tin thu thập được phải đảm bảo tính chính xác, kịp thời, đầy đủ. Do vậy, ngân hàng cần phải có thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Các thông tin về khách hàng vay vốn mà ngân hàng cần phải nắm được bao gồm: Các thông tin phi tài chính như tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực kinh doanh, quan hệ xã hội... Các thông tin tài chính của khách hàng như khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả hoạt động SXKD, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp.... Ngoài ra, các thông tin gián tiếp như tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc tìm kiếm thông tin một cách chính xác, kịp thời rất khó khăn. Trên thực tế tại Việt Nam đã có nhiều khoản tín dụng bị rủi ro do thiếu thông tin như: một khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp để vay vốn nhiều ngân hàng hoặc thành lập công ty con để lấy danh nghĩa lừa vay vốn của ngân hàng hay khách hàng sử dụng phương án SXKD giả để vay vốn mà ngân hàng không nhận biết được.

- Công tác quản lý, tổ chức, kiểm soát nội bộ

Thông qua công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát nội bộ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, quy chế và đúng pháp luật, nắm rõ được thông tin về những khoản vay, tránh tình trạng khách hàng vay vốn sử dụng sai mục đích. Việc kiểm soát nội bộ không được thực hiện hoặc thực hiện không thường xuyên, kịp thời thì những sai sót, lệch lạc trong hoạt động cho vay sẽ không được phát hiện và không có biện pháp khắc phục kịp thời, do vậy RRTD sẽ xảy ra.

Ngoài ra, công tác quản lý, tổ chức được tiến hành chặt chẽ, khoa học; các bộ phận phòng ban chức năng được tổ chức chặt chẽ, xây dựng được mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ, phối hợp thông tin cho nhau trong hoạt động sẽ giúp cho hoạt động tín dụng của ngân hàng diễn ra một cách lành mạnh, hiệu quả. Ngược lại, sẽ tạo khe hở,

điều kiện để cho CBTD và khách hàng câu kết với nhau, từ đó, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng không thể lường hết cho ngân hàng. Thực tế cho thấy, danh mục tín dụng của ngân hàng phá sản đều có vấn đề. Nợ quá hạn tăng cao làm giảm thu nhập, tăng chi phí tổn thất tín dụng và các chi phí khác đã đẩy ngân hàng rơi vào tình trạng thua lỗ. Vấn đề nợ quá hạn do nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, khâu tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát tín dụng của ngân hàng phá sản không hợp lý, không tôn trọng các nguyên tắc hoạt động tín dụng, việc phối hợp giữa các bộ phận chức năng của ngân hàng không tốt là các vấn đề thường bộc lộ rõ nhất.

- Cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng

Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, với sự xuất hiện ngày càng nhiều các trung gian tài chính như các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương trợ, quỹ trợ cấp... càng làm cho thị trường tài chính, tiền tệ thêm sôi động. Nếu ngân hàng không thường xuyên đầu tư mở rộng cơ sở vật chất, cải tiến công nghệ thì ngân hàng sẽ khó có thể mở rộng quy mô hoạt động, địa bàn hoạt động của ngân hàng sẽ bị thu hẹp, khả năng thu hút các khoản tín dụng có chất lượng sẽ bị hạn chế. Vì vậy, RRTD sẽ có nguy cơ xuất hiện nhiều, việc thua lỗ và thất bại đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi.

- Ngoài ra, môi trường hoạt động bên ngoài cũng ảnh hưởng không nhỏ đến RRTD của ngân hàng

Đó là sự tác động của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội như bảo lụt, hạn hán, động đất, hoả hoạn, hoặc các hành động ăn cắp, lừa đảo, cướp giật, gây mất tài sản của khách hàng lẫn ngân hàng. Ngoài ra, sự tác động của môi trường kinh tế, luật pháp, các chính sách Nhà nước, đặc biệt là chính sách tiền tệ, tín dụng như tình hình kinh tế chung của đất nước, hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế của Nhà nước chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, sự lừa đảo, chiếm dụng vốn ngân hàng vẫn diễn ra cũng đã ảnh hưởng xấu tới môi trường hoạt động của khách hàng, khả năng tạo ra thu nhập, lợi nhuận và sự phát triển của khách hàng nên tác động đến khả năng thanh toán các khoản nợ. Vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng nói chung và RRTD nói riêng.

1.2. Một số vấn đề về hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

Các khoản cho vay không thanh toán đúng hạn là hình thức biểu hiện của RRTD. Chúng được hình thành do hàng loạt các nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, để hạn chế tối đa các tổn thất, NHTM cần phải có chương trình quản lý rủi ro đồng bộ, từ việc quản lý rủi ro của từng khoản tín dụng riêng lẽ và cả danh mục tín dụng đến việc giám sát, xử lý các khoản cho vay này. Ngày nay, để hạn chế RRTD, các NHTM thực hiện các công việc sau:

1.2.1. Nhận dạng, phân tích, đo lường rủi ro tín dụng

1.2.1.1. Nhận dạng rủi ro tín dụng

Nhận dạng RRTD là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các RRTD đã, đang và sẽ xảy ra đối với NHTM. Hoạt động này nhằm phát triển các thông tin về nguồn gốc rủi ro, các nguy cơ, hiểm họa và các loại tổn thất có thể xảy ra để có cơ sở đề xuất các giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp. Các phương pháp nhận dạng rủi ro như sau:

- Phương pháp bảng liệt kê câu hỏi. Theo phương pháp này, người ta lập một bảng liệt kê trên cơ sở đặt ra các nghi vấn về nguồn gốc của rủi ro, cơ chế gây ra rủi ro. Từ đó loại bỏ những nghi vấn không có cơ sở hoặc không rõ ràng, giữ lại và phát hiện những nghi vấn mới, có cơ sở. Chẳng hạn như thiết lập bảng liệt kê RRTD theo nguồn rủi ro năng lực tài chính của khách hàng như sau (bảng 1.1):

Bảng 1.1. RRTD theo nguồn rủi ro năng lực tài chính của khách hàng


Nghi vấn về điều kiện rủi ro

Cơ chế gây ra rủi ro

1. Khả năng tài trợ

Hệ số nợ cao thì sức chịu đựng của doanh nghiệp

thấp, rủi ro cao

2. Khả năng thanh toán

Khả năng thanh toán thấp, nguy cơ rủi ro phá sản cao

3. Khả năng sinh lợi

...............................

Tỷ suất sinh lợi thấp, khả năng không trả nợ cao

..................................

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình - 3


- Phương pháp lưu đồ. Đây là phương pháp khá quan trọng để nhận dạng RRTD. Theo phương pháp này, người ta tiến hành xây dựng một dãy lưu đồ về các khâu trong quá trình cho vay. Qua đó, ngân hàng sẽ xác định được rủi ro xảy ra đối với từng khâu rõ ràng và chính xác hơn như sơ đồ 1.1.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/04/2022