Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình - 1


LUẬN VĂN:


Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình



Mở Đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Đối với NHTM hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng thường chiếm tới hơn một nữa tổng tài sản có và tạo ra hơn 2/3 tổng thu nhập của hầu hết các NHTM. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, trong chiến lược kinh doanh của mình, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả. Tuy nhiên, không phải quan hệ tín dụng nào cũng mang lại lợi ích và lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi bên trong lợi ích ấy chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể lường trước hoặc không lường trước được. Hậu quả của những rủi ro đó là sự gia tăng về chi phí, hạn chế quy mô tín dụng, gây ra thiệt hại về tài chính, hoặc có thể trầm trọng hơn đó là sự mất uy tín của cả ngân hàng và khách hàng, gây mất ổn định trong hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động của nền kinh tế. Do đó, việc xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả luôn gắn liền với việc xây dựng hệ thống các biện pháp phòng ngừa, xử lý RRTD một cách hữu hiệu. Vì vậy, công tác quản lý RRTD luôn là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM. Việc giảm thiểu rủi ro và tổn thất trong hoạt động tín dụng luôn là yêu cầu đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng tới trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM.

Trong những năm qua, cùng với việc đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và các nghiệp vụ trong toàn hệ thống thống ngân hàng Việt Nam, hoạt động tín dụng của các NHTM ở nước đã có những thay đổi lớn từ trong tư duy, nhận thức đến hành động của cả nhà quản lý cấp cao ngân hàng đến các nhân viên tín dụng. Việc cấp tín dụng trước đây của các NHTM chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo và xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay khi rủi ro xảy ra, thì nay đã dần chuyển sang cho vay chủ yếu dựa trên cơ sở đánh giá uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng và áp dụng các biện pháp giám sát phòng ngừa, xử lý rủi ro mà các NHTM trên thế giới đã và đang áp dụng. Vì vậy, dư nợ của các NHTM ngày càng mở rộng, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng lên.

Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình - 1

NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình không nằm ngoài xu hướng đổi mới chung đó, tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 25%, đối tượng cho vay của ngân hàng ngày càng mở rộng, nhiều ngành nghề chăn nuôi, trồng trọt mới xuất hiện trên

địa bàn đã được ngân hàng tiếp cận để mở rộng cho vay. RRTD ngày càng giảm thấp, nợ quá hạn và nợ khó đòi được kiểm soát. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, hoạt động quản lý RRTD của chi nhánh Thăng Bình vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa tiếp cận được các phương pháp quản lý RRTD của ngân hàng hiện đại. Chính vì thế, chất lượng của các khoản mục cho vay chưa cao, nguy cơ rủi ro tiềm ẩn của các khoản mục tín dụng luôn đe doạ ngân hàng, nợ quá hạn còn phát sinh còn ở mức cao. Chính sự e ngại rủi ro làm cho việc mở rộng quy mô tín dụng thường gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình là cấp thiết và luôn có ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng chính là lý do cơ bản của việc lựa chọn đề tài: “Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bỡnh”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng nước ta được chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng 1 cấp sang hệ thống ngân hàng 2 cấp, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và kinh doanh tín dụng nói riêng được xác lập và phát triển. Vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về rủi ro TDNH và quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Trong số đó có một số công trình đáng chú ý sau:

- “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội” (1997). Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Lê Anh Hào, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- “Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (1999). Luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- “Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Thái Bình” (2002). Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Quang Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng Công thương Việt Nam” (2004), Luận văn thạc sĩ Kinh tế của tác giả Mai Văn Hoạt. Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- “Nâng cao chất lượng tín dụng tại sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” (2005). Luận văn thạc sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Loan, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Các công trình này đã làm rõ một số lý luận chung về rủi ro TDNH, về phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Nhưng cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về RRTD và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về rủi ro TDNH và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Thăng Bình.

Từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra gồm:

- Làm rõ những vấn đề lý luận về RRTD và hạn chế RRTD của NHTM.

- Đánh giá thực trạng về RRTD và công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua. Qua đó, chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong công tác phòng ngừa, hạn chế RRTD và những nguyên nhân chủ yếu.

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM và công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM.

Về phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tại NHNo&PTNT ở địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam từ năm 2001 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu


Thực hiện đề tài trên, luận văn sử dụng các phương pháp như: Phép biện chứng của Mác xít

Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp Phương pháp mô hình hoá, so sánh, đối chiếu

Một số phương pháp khác.


6. Những đóng góp của đề tài


- Hệ thống hoá được các vấn đề lý luận cơ bản về RRTD và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM.

- Đánh giá thực trạng về RRTD và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua, đồng thời phân tích những kết quả đạt, những tồn tại, hạn chế trong việc hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và những nguyên nhân chủ yếu.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình.

7. Kết cấu của luận văn


Ngoài lời mở đầu, kiến nghị, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

Chương 1


một số vấn đề về rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại


1.1. Một số vấn đề về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại


1.1.1. Quan niệm về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Quan niệm về rủi ro và rủi ro trong kinh doanh

Trong cuộc sống hàng ngày, rủi ro có thể xuất hiện trên mọi lĩnh vực, mọi lúc, mọi nơi và không ngoại trừ một ai. Khi xã hội loài người càng phát triển, hoạt động của con người ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp thì rủi ro cũng xuất hiện ngày càng nhiều.

Trong kinh doanh, mối nguy cơ rủi ro là rất lớn vì các nhà kinh doanh không những gánh chịu các rủi ro chung như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh,... mà còn gánh chịu cả về sự biến động của giá cả, nợ nần, thua lỗ. Vì vậy, vấn đề rủi ro rất được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu.

Có rất nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất thế nào là rủi ro. Các trường phái và các tác giả đã đưa ra định nghĩa khác nhau về rủi ro. Nhìn chung có 2 quan niệm về rủi ro như sau:

* Theo quan niệm truyền thống, có một số định nghĩa về rủi ro như sau:

- Theo Từ điển tiếng Việt do trung tâm từ điển học Hà Nội xuất bản 1995 thì “Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến”.

- Theo giáo sư Nguyễn Lân: “Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may mắn” [25, tr.25].

- Theo tiến sĩ Hồ Diệu: “Rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút về lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến” [25, tr.25].

Như vậy, theo quan niệm truyền thống, rủi ro được định nghĩa là những điều không may mắn xảy ra cho con người, làm mất mát, thiệt hại về tài sản hay phát sinh một khoản nợ. Quan niệm này cho rằng rủi ro chỉ gắn liền với mất mát, thiệt hại hay

khó khăn.

* Theo quan niệm hiện đại, có một số định nghĩa điển hình về rủi ro như sau:

- Theo Frank Knight thì “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”.

- Theo Allan Willett “Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi”.

- Theo Irving Preffer “Rủi ro là tổng hợp những ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất”.

Như vậy, theo quan niệm hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Quan niệm này cho rằng rủi ro có thể mang đến tổn thất, mất mát, nguy hiểm cho con người nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. Vì vậy, có thể nói, rủi ro vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực.

* Trong kinh doanh người ta thường đề cập đến 2 khái niệm rủi ro sau:

- Rủi ro thuần túy là rủi ro chỉ mang lại những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm như hỏa hoạn, trộm cắp, tai nạn,..., làm phát sinh một khoản chi phí để bù đắp thiệt hại. Vì vậy, loại rủi ro này cần phải có biện pháp phòng tránh hoặc hạn chế.

- Rủi ro suy tính (hay theo lý thuyết của A.M.Mowbray Blanchad Williams còn gọi là rủi ro mang tính đầu cơ) là rủi ro mà trong đó những cơ hội tạo ra thuận lợi gắn với những nguy cơ gây ra tổn thất, loại rủi ro này là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh và có tính hấp dẫn của nó.

Để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, người ta thường phân loại rủi ro theo nguồn rủi ro (theo nguyên nhân), có những nguồn rủi ro như sau:

+ Rủi ro do môi trường thiên nhiên. Nhóm rủi ro này do các hiện tượng thiên nhiên như động đất, núi lửa, bão lũ,..., gây ra. Những rủi ro này thường dẫn đến những thiệt hại to lớn về người và tài sản.

+ Rủi ro do môi trường xã hội. Nhóm rủi ro này do sự thay đổi các chuẩn mực, hành vi con người, cấu trúc xã hội, các định chế,... gây ra.

+ Rủi ro do môi trường văn hóa. Là những rủi ro do thiếu hiểu biết về phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối sống, đạo đức của dân tộc, từ đó có cách hành xử không phù hợp.

+ Rủi ro do môi trường chính trị. Nhóm rủi ro này do sự bất ổn của môi trường

chính trị. Môi trường chính trị ổn định sẽ giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp.

+ Rủi ro do môi trường luật pháp. Luật pháp đề ra các chuẩn mực mà mọi người phải thực hiện, tuy nhiên, xã hội luôn phát triển, nếu các chuẩn mực luật pháp không phù hợp với bước tiến của xã hội thì sẽ gây ra rủi ro. Ngược lại, nếu luật pháp thay đổi nhiều, không ổn định cũng gây ra khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp.

+ Rủi ro do môi trường kinh tế. Mọi hiện tượng diễn ra trong môi trường kinh tế như tốc độ phát triển kinh tế, khủng hoảng, lạm phát, suy thoái kinh tế,..., đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp, gây ra những rủi ro, bất ổn.

+ Rủi ro do môi trường hoạt động của tổ chức. Trong quá trình hoạt động của mọi tổ chức, có thể phát sinh nhiều rủi ro. Rủi ro có thể phát sinh ở nhiều lĩnh vực như công nghệ, tổ chức bộ máy, văn hóa tổ chức, tuyển dụng, đãi ngộ, quan hệ khách hàng, đối thủ cạnh tranh, tâm lý của người lãnh đạo.

+ Rủi ro do nhận thức của con người. Một khi nhận diện và phân tích không đúng vấn đề thì tất yếu sẽ có kết luận và quyết định sai.

Tóm lại: Trong kinh doanh, rủi ro được hiểu là sự bất trắc có thể đo lường được, nó có thể mang đến những tổn thất, thiệt hại, nguy hiểm, hoặc làm mất đi những cơ hội sinh lợi nhưng cũng có thể đem đến những lợi ích, những cơ hội thuận lợi. Vì vậy, việc nghiên cứu rủi ro để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực và tìm kiếm những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh là điều hết sức cần thiết trong điều kiện kinh doanh ngày nay.

1.1.1.2. Quan niệm về rủi ro tín dụng của NHTM

Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn có tiềm ẩn nguy cơ gặp phải rủi ro cao. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, rủi ro ngân hàng thường ít được đề cập đến. Khi rủi ro xảy ra, Nhà nước thường sử dụng các biện pháp hành chính để ngăn chặn như phát hành tiền, không cho các doanh nghiệp, cá nhân rút tiền... Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng mất khả năng thanh toán ở các doanh nghiệp xảy ra thường xuyên, việc cho vay không thu được nợ, quản lý ngân hàng không chặt chẽ, các ngân hàng bị thua lỗ, khách hàng đến rút tiền ào ạt, mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản là hiện tượng tất yếu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/04/2022