Một Số Tranh Chấp Về Thừa Kế Theo Di Chúc Miệng

lệ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với án dân sự nói chung là 71,63%); cho rút kháng cáo, kháng nghị 5 vụ chiếm 4,39%; còn lại 23 vụ chiếm 20,18%. Trong số các vụ đã giải quyết thì giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 52 vụ chiếm 60,47 %; sửa một phần bản án sơ thẩm 11 vụ chiếm 12,79%; sửa toàn bộ bản án sơ thẩm 4 vụ chiếm 4,65%; hủy án và đình chỉ tố tụng 2 vụ chiếm 2,33%; hủy án sơ thẩm, giao sơ thẩm lại 14 vụ chiếm 16,28%; bác kháng cáo, kháng nghị vì không hợp lệ 1 vụ chiếm 1,16%; hòa giải thành 1 vụ chiếm 1,16 %; tạm đình chỉ 1 vụ chiếm 1,16%.

Năm 2004 Các tòa án cấp sơ thẩm đã thủ lý 127.763 vụ; đã giải quyết

110.510 vụ, đạt 86,5%. Tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy là 0,95%, sửa là 3,63%. Các tòa án cấp phúc thẩm đã thủ lý 14.358 vụ; đã giải quyết được 13.231 vụ, đạt 92,12%. Tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy là 0,36%, sửa là 0,04%. Đối với xét xử theo theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, đã thủ lý 575 vụ; đã xét xử được 531 vụ, đạt 92,35%. Toàn ngành Tòa án đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm được 124.272 vụ trong tổng số 142.696 vụ đạt 87,1%. So với năm trước Tòa án đã giải quyết nhiều hơn 8.283 vụ cao hơn 7% và vượt 2,1% so với chỉ tiêu đề ra dầu năm.

Theo số liệu này, cho thấy các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống thực tiễn ngày càng tăng, điều này phản ảnh đúng thực tế đời sống vật chất ngày càng càng cao của người dân. Tuy nhiên tỷ lệ giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân các cấp đối với các vụ án tranh chấp thừa kế nói chung, thừa kế theo di chúc miệng nói riêng còn thấp so với tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung. Nguyên nhân của tình trạng này là do các vụ án tranh chấp thừa kế thường khó khăn vì có nhiều các đương sự (so với các vụ án dân sự nói chung) nên việc triệu tập để lấy lời khai, hòa giải … mất nhiều thời gian. Nhiều đương sự (đặc biệt là bị đơn) gây khó khăn cho Tòa án.

Ngoài ra người làm chứng cho việc để lai di chúc miệng chây ì trong việc làm chứng khi có yêu cầu Tòa án: Không đến Tòa theo giấy triệu tập, không ký vào các biên bản lấy lời khai... Vì vậy, tỷ lệ án tồn đọng còn nhiều.

Vấn đề thứ hai là tỷ lệ các vụ án thừa kế theo di chúc miệng bị hủy, bị sửa cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ. Nguyên nhân của tình trạng bị hủy là do án sơ thẩm vi phạm tố tụng hoặc việc điều tra của Tòa án không đầy đủ.

Số lượng các vụ án được Tòa án hòa giải thành không nhiều. Nguyên nhân chính là do các Thẩm phán không kiên trì hòa giải, động viên đương sự hòa giải với nhau. Mặt khác, một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng, đó là: Việc tính chỉ tiêu 1 vụ xét xử bằng 1 vụ hòa giải thành đã tạo ra cho Thẩm phán thói quen xét xử, chứ không kiên trì hòa giải.

Việc hủy án để chuyển cho các cơ quan nhà nước khác giải quyết vẫn còn, điều này một mặt thể hiện trình độ của Thẩm phán còn có những điểm bất cập, nhưng cũng cần phải công nhận rằng hệ thống các văn bản pháp luật về tố tụng của Nhà nước ta trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, còn nhiều hạn chế. Nhưng nhìn chung, những năm vừa qua các tranh chấp về thừa kế nói chung, tranh chấp thừa kế theo di chúc miệng nói riêng đã tăng nhiều hơn so với trước khi hai Bộ luật dân sư được ban hành. Hơn nữa, kế từ khi pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận đất có giá trị và quyền sử dụng đất được coi là một quyền tài sản của cá nhân thì quyền sử dụng đất của người chết để lại đôi khi là một loại di sản có giá trị rất lớn vì vậy tranh chấp xảy ra giữa những người thừa kế khác với người đang quản lý và sử dụng diện tích đất

đó là một điều tất yếu.

Ngoài các tài sản hữu hình, di sản thừa kế còn có thể bao gồm các tài sản vô hình. Trong khi sự quy định của pháp luật về thừa kế các tài sản này còn khá chung chung và thiếu sót, ví dụ như: việc di sản thừa kế là nhãn hiệu hàng hóa hoặc tên thương mại thì không phải ai cũng có thể thừa kế được, để duy trì phát

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

triển được nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại thì người thừa kế hưởng nó phải có các điều kiện nhất định. Khi người chết lập di chúc cho người thừa kế hưởng quyền về nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại nhưng bản thân người được hưởng di sản lại không thế duy trì được vì không có điều kiện hoặc không có khả năng kinh doanh,...thì trong những trường hợp này, chắc chắn những người thừa kế khác có năng lực, nhu cầu, điêu kiện duy trì được các quyền sở hữu công nghiệp nói trên sẽ tranh chấp dù di chúc có hiệu lực.

Sai sót và khó khăn nhiều nhất là việc đánh giá di chúc miệng họp pháp hay không hợp pháp, nhất là trong những vụ mà người để lại di sản khi tính mạng nguy kịch để lai di chúc miệng nhưng trước đó đã để lại di chúc bằng văn ban khác. Do nhận thức, hiểu biết về pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế nên khi để lại di chúc miệng họ không tuân thủ các quy định của pháp luật, chẳng hạn như khi họ đẻ lai di chúc miệng không có người làm chứng hoặc nếu có người làm chứng thì nhiều khi lại chính là người trong diện được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Cũng có trường hợp khi họ đẻ lai di chúc miệng nội dung di chúc chỉ giao quản lý, sử dụng di sản có điều kiện, nhưng khi điều kiện thay đổi, Tòa án vẫn xử theo di chúc; hoặc có những trường hợp di sản dùng vào việc thờ cúng thì tòa án vẩn chia. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự thì "Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản" [17] không được quyền hưởng di sản. Nhưng trong thực tiễn xét xử, có vụ Tòa án kết luận là di chúc giả và đã xử bác di chúc, song nhiều vụ vẫn cho người xuất trình di chúc giả hưởng thừa kế, số vụ Tòa án xử không cho người giả mạo di chúc hưởng thừa kế là rất ít.

Điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam - 10

Điều 669 Bộ luật Dân sự quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, đó là "Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con đã

thành niên mà không có khả năng lao động". Nhưng có vụ người để lại di chúc đã không dành "phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật" cho các đối tượng nói trên song Tòa án vẫn công nhận toàn bộ di chúc của họ là họp pháp...

3.2. MỘT SỐ TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC MIỆNG

3.2.1. Tranh chấp về hiệu lực của di chúc do dì chúc miệng nhưng không có hai người làm chứng ghi chép như quy định, tuy là di chúc có điều kiện nhưng Tòa án vẫn xử theo di chúc

Bản án số 15/DSST ngày 19/02/2003 của Tòa án nhân dân huyện

D.L xử việc chia thừa kế giữa nguyên đơn là anh Trần Văn Hùng, bị đơn là anh Lê Văn Bảy.

Nội dung vụ án: Ngày 17/11/1996, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử cho chị Lê Thị Hà ly hôn anh Trần Văn Hùng, về con chung của vợ chồng có một cháu là Trần Văn Sang, Tòa án đã xử giao cho chị Hà nuôi dưỡng, về tài sản, Tòa án chia cho chị Hà được sở hữu một nhà ba gian trên diện tích đất 120 mét vuông.

Sau khi ly hôn, chị Hà và anh Lê Viết Long có con ngoài giá thú là cháu Lê Viết Tùng.

Ngày 13/12/1998, chị Hà bị chết vì tai nạn giao thông. Anh Lê Văn Bảy (anh ruột chị Hà) lo toàn bộ chi phí mai táng cho chị Hà, nuôi dưỡng cháu Sang và cháu Long, đồng thời quản lý sử dụng nhà đất của chị Hà. Tháng 7/2000, cháu Tùng về ở với anh Long, tháng 8/2001 anh Hùng đón cháu Sang về nuôi dưỡng. Sau đó anh Hung có đơn khởi kiện đối với anh Bảy yêu cầu chia thừa kế cho cháu Sang.

Anh Bảy cho rằng trước khi chết đã có di chúc miệng giao toàn bộ nhà đất cho anh sử dụng đế nuôi dưỡng hai con của chị Hà. Ngoài ra anh còn chi phí mai táng, xây mộ cho chị Tâm hết số tiền 14.000.000 đồng. Nay anh yêu cầu được sử dụng toàn bộ tài sản của chị Tâm, khi các cháu Sang, Tùng trưởng thành, anh sẽ giao lại.

Anh Long giám hộ cho cháu Tùng có yêu cầu xin chia di sản của chị Hà cho cháu Tùng, sau khi trừ chi phí mai táng cho chị Hà.

Bản án sơ thẩm số 15 đã bác yêu cầu của anh Trần Văn Hùng về anh Lê Viết Long đòi chia tài sản của chị Lê Thị Hà cho cháu Sang và cháu Tùng

Bản án phúc thẩm số 32 ngày 15/9/2004, Tòa án nhân dân tỉnh V quyết định sửa một phần bản án sơ thẩm: Xác nhận khối di sản của chị Hà theo biên bản định giá ngày 23/4/2004 di sản chị Hà để lại gồ một ngôi nhà trên diện tích đát 120 mét vuông và 1 sổ tiết kiệm gửi tại ngân hàng nông nghiệp huyện trị giá 50.000.000 đồng.

Tạm giao cho anh Bảy quản lý, sử dụng khối di sản của chị Tâm.

Bác yêu cầu của anh Hùng, anh Long đòi chia di sản của chị Hà cho cháu Sang và cháu Tùng.

Căn cứ quy định tại Điều 654 Bộ luật Dân sự 1995, để di chúc miệng có giá trị pháp lý, ngoài việc di chúc đó thể hiện đúng ý chí cuối cùng của người lập di chúc, thì phải có ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Người làm chứng phải có đủ những yếu tố quy định tại Điều 657 Bộ luật Dân sự 1995.

Tuy chị Tâm có di chúc miệng, nhưng lời trăng trối của chị diễn ra khi không có người làm chứng đúng như quy định tại Điều 657 Bộ luật Dân sự 1995 và không có ai ghi chép lại lời di chúc miệng đó. Mặt khác, về nội dung di chúc miệng của chị Hà cũng chỉ giao cho anh Bảy quản lý, sử dụng khối di sản của chị với điều kiện nuôi hai cháu Sang và Tùng (con chị Hà), nay hai cháu đã về ở với bố đẻ. Vì vậy, điều kiện để anh Bảy tiếp tục quản lý, sử dụng khối di sản của chị Hà không còn nữa. Do đó, anh Hùng là giám hộ của cháu Sang, anh Long là giám hộ của cháu Tùng xin chia di sản của chị Hà cho hai cháu là đúng pháp luật. Lẽ ra trong trường họp này Tòa án các cấp phải lấy di sản của chị Hà trích trả cho anh Bảy các khoản tiền mai táng, cải táng cho chị

Hà, tiền công duy trì tài sản, công chăm lo nuôi dưỡng cháu Sang cháu Tùng (nếu có) và các chi phí họp lý khác; phần di sản còn lại chia thừa kế theo pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xử bác yêu cầu của anh HÙng và anh Long, tạm giao khối di sản của chị Hà cho anh Bảy quản lý, sử dụng là không đúng pháp luật, không đảm bảo quyền lợi của cháu Sang và cháu Tùng.

Ngoài ra về tố tụng, trong vụ án trên, anh Húng và anh Long là giám hộ của cháu Sang và cháu Tùng. Nhưng Tòa án các cấp xác định anh Hùng là nguyên đơn, anh Long là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chưa chính xác.

3.2.2 Tranh chấp về hiệu lực của di chúc miệng và di chúc bằng văn bản

Tóm tắt nội dung vụ án và quá trình giải quyết: Ngày 25/9/1993, cụ Phạm Thị Hòa lập tờ di chúc để lại căn nhà xóm 2 thôn Đông, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội cho con gái là bà Nguyễn Thị Hà trọn quyền sở hữu sau khi cụ Hòa qua đời. Tờ di chúc ngày 25/9/1993 có bà Võ Thị Hoa ký làm chứng và phòng công chứng Nhà nước huyện Từ Liêm chứng nhận.

Ngày 23/10/1994, ông Nguyễn Văn Quang (con cụ Hòa) lập "tờ đồng thuận" có nội dung: Sinh thời cụ Hòa có ba người con là Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Văn Quang. Cụ Hòa chết không làm chúc thư mà chỉ căn dặn ông Quang, ông Phú. Cả hai người này đều đồng ý là khi cụ Hòa chết, căn nhà tại xóm 2 thôn Đông, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm sẽ được cụ Hòa để lại cho cháu nội là Nguyễn Văn Quý 20 tuổi, là con của ông Nguyễn Văn Quang làm thừa kế để thờ cúng cụ và không được bán. Văn bản đồng thuận này có ông Phú ký tên.

Tháng 5 năm 1997, bà Nguyễn Thị Hà có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết để bà được thừa kế di sản là căn nhà ở xóm 2 thôn Đông, xã Xuân Đỉnh theo tờ di chúc của cụ Hòa lập ngày 25/9/1993 và yêu cầu Tòa án buộc

ông Nguyễn Văn Quang giao trả căn nhà tại xóm 2 thôn Đông mà ông Quang đang chiếm dụng.

Tại Tòa án, bà Hà có thừa nhận cụ Hòa có căn dặn giao căn nhà tại xóm 2 thôn Đông cho anh Quý quản lý để thờ cúng nhưng bà Hà cho rằng bà vẫn là người được sở hữu căn nhà đố theo di chúc ngày 25/9/1993, nên bà yêu cầu Tòa án xét xử giao căn nhà trên cho bà.

Ông Nguyễn Văn Phú, ông Nguyễn Văn Quang, anh Nguyễn Văn Quý yêu cầu Tòa án giải quyết giao căn nhà tại xóm 2 thôn Đông, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm cho anh Nguyễn Văn Quý theo "Tờ đồng thuận" ngày 23/10/1994.

Bản án dân sự sơ thẩm số 102/DSST ngày 22/12/1997 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Hà.

Bà Nguyễn Thị Hà được sở hữu căn nhà tại xóm 2 thôn Đông, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm.

Ông Nguyễn Văn Phú, ông Nguyễn Văn Quang, anh Nguyễn Văn Quý có trách nhiệm giao lại căn nhà tại xóm 2 thôn Đông, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm cho bà Nguyễn Thị Hà ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngày 23/12/1997, ông Phú, ông Quang, anh Quý kháng cáo.

Bản án dân sự phúc thẩm số 84/PTDS ngày 12/7/1998 của Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hà Nội đã quyết định:

Bác yêu cầu của bà Hà.

Giao căn nhà tại xóm 2 thôn Đông, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm cho anh Nguyễn Văn Quý quản lý để thờ cúng theo di chúc miệng của cụ Hòa.

Đây là một việc tranh chấp khá phức tạp. Trước khi cụ Hòa chết có đế lại một di chúc bằng văn bản lập ngày 25/9/1993. Theo lời khai của ông Quang, ông Phú thì bà Hòa còn có di chúc miệng được thể hiện trong "Tờ

đồng thuận" lập ngày 23/10/1994 với nội dung để lại căn nhà cho cháu Quý "làm thừa kế để thờ cúng và không được bán". Vậy "Tờ đồng thuận" có được coi là di chúc miệng của cụ Hòa và có giá trị thay thế, phủ định di chúc bằng văn bản lập ngày 25/9/1993 hay không?

Có hai ý kiến khác nhau về vấn đề này:

Ý kiến thứ nhất: Tuy di chúc miệng không thỏa mãn các yêu cầu của Điều 654, 657 Bộ luật Dân sự 1995 nhưng có căn cứ tin rằng "Tờ đồng thuận" đã ghi lại lời trăng trối của cụ Hòa trước khi chết. Do đó phải công nhận di chúc miệng có giá trị pháp lý, đã thay thế di chúc bằng văn bản lập ngày 25/9/1993.

Ý kiến thứ hai: Căn cứ vào Điều 654, Điều 657 Bộ luật Dân sự 1995 thì di chúc miệng này không có giá trị pháp lý. Đối chiếu các quy định tại khoản 1 Điều 654 Bộ luật Dân sự 1995 và Điều 657 Bộ luật Dân sự 1995 với "Tờ đồng thuận" thì thấy lời căn dặn của cụ Hòa từ ngày 11/10/1994 nhưng đến ngày 23/10/1994 (tức 12 ngày sau) ông Quang mới viết lại theo lời của ông Phú chứ ông Quang không có mặt khi cụ Hòa có lời trăng trối trước khi chết, trong khi khoản 1 Điều 654 Bộ luật Dân sự 1995 đòi hỏi người viết lại di chúc miệng phải là người làm chứng (có mặt và có đủ điều kiện như quy định của Điều 657 Bộ luật Dân sự 1995), đồng thời phải chép lại ngay sau đó, chứ không phải để 12 ngày sau mới chép lại.

Cụ Nguyễn Thị Hòa chết trước khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực. Căn cứ vào điểm b khoản 3 Nghị quyết ngày 28/10/1995 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Dân sự thì:

Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực, mà nội dung và hình thức khác với quy định của Bộ luật Dân sự, nhưng không vi phạm điều cấm hoặc không trái với đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật Dân sự, thì được thực hiện theo quy định của pháp luật khi giao dịch đó được xác lập [10].

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 06/06/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí