Thực Trạng Giải Quyết Những Tranh Chấp Về Tính Hợp Pháp Của Di Chúc Miệng Tại Tòa Án Nhân Dân

không biết chữ) và phải ký tên, điểm chỉ vào di chúc. Còn đối với di chúc miệng thì pháp luật không quy định người di chúc miệng phải được đọc, nghe đọc di chúc. Vì vậy, độ tin cậy thể hiện đúng ý chí của người lập di chúc bằng văn bản cao hơn đối với người lập di chúc miệng. Hơn nữa, di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực không bị mất hiệu lực bởi thời gian, nhận thức của người lập di chúc kể từ thời điểm lập di chúc, còn yếu tố thời gian, nhận thức của người lập di chúc miệng lại có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực của di chúc miệng như đã phân tích ở phần trên.

Trước hết, chúng tôi cho rằng việc nhận thức đúng, hiểu đúng các quy định về di chúc miệng có ý nghĩa rất quan trọng cả lý luận và thực tiễn vì nó liên quan đến việc đánh giá hiệu lực của di chúc, để từ đó làm cơ sở cho việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di chúc hay phân chia di sản thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, cần có sự phân biệt rõ, tránh việc đồng nhất giữa di chúc miệng và di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực. Chúng tôi thấy rằng trong hai quan điểm nêu trên thì quan điểm thứ hai có căn cứ về mặt khoa học pháp lý. Bởi lẽ, di chúc bằng văn bản thì công chứng hoặc chứng thực về nội dung (ý chí của người lập di chúc, loại tài sản, giấy tờ chứng minh sở hữu tài sản,... còn di chúc miệng không thể công chứng về nội dung và về hình thức mà chỉ công chứng chứng thực ngày đem đến công chứng hoặc chứng thực, vì cơ quan công chứng hoặc UBND không công chứng, chứng thực chữ ký của người làm chứng, vì chữ ký đó đã được ký ngay sau khi lập di chúc miệng. Đây là một vấn đề chưa được quy định rỏ trong Luật công chứng.

Mặt khác, với quy định về di chúc miệng như trên thì một vấn đề nữa được đặt ra ở đây là vợ chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng không. Xét về nguyên tắc thì, vợ chồng có thể lập di chúc miệng chung, tuy nhiên thực tế không thể. Bởi những lý do sau:

Thứ nhất, muốn lập di chúc chung, vợ – chồng phải có sự bàn bạc và thống nhất ý chí chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng bị

cái chết đe dọa thì điều này là khó có thể thực hiện trên thực tế. Mà khi không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng, thì việc lập di chúc chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và trung thực ý chí cá nhân của mỗi người. Tình trạng này dễ dẫn đến việc một bên quyết định nội dung di chúc chung theo ý chí chủ quan của mình mà không có sự thống nhất ý chí với người kia.

Thứ hai, di chúc miệng quy định thủ tục lập là người lập di chúc sẽ thể hiện ý chí trực tiếp trước mặt hai người làm chứng, vì vậy điều này không cho phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người phát biểu. Như vậy thì sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu từng người trình bày riêng ý nguyện của mình, thì vô hình dung nó lại trở thành di chúc cá nhân; còn nếu một người đại diện trình bày ý chí chung và người kia chấp nhận toàn bộ, thì cũng giống như đã uỷ quyền lập di chúc, mà như vậy thì lại vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt cả hai vợ chồng đang bị cái chết đe dọa, để một người phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và hoàn toàn đồng ý, là không thực tế.

Thứ ba, Với quy định tại Khoản 2 Điều 651, BLDS thì một vấn đề nữa đặt ra đối với di chúc chung là sau 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng mà một người chết và một người còn sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan tới người còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Trong khi đó, tại Điều 668, BLDS quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết” như vậy di chúc chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã chết.

Thứ tư, đang trong hoàn cảnh đặc biệt trước sự sống, cái chết của cả 2 người, việc tiếp nhận và ghi nhớ ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ, không chính xác. Bởi ý nguyện của người chết lại không được thể hiện ra thành một dạng vật chất định hình rõ ràng và cố định, rất dễ quên và cũng dễ bị sửa đổi mà lại không có chứng cứ xác đáng thể hiện sự đồng thuận của vợ,

chồng. Vì vậy việc chứng minh được tính chất đồng thuận, tự nguyện của cả hai vợ chồng trong trường hợp này sẽ không bảo đảm được tối đa tính trung thực, khách quan.

Mặt khác vợ, chồng là hai cá thể độc lập, vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng phải đảm bảo điều kiện “bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản”, thực tế trường hợp cả hai vợ, chồng cùng nhau rơi vào tình trạng như vậy là rất hiếm xảy ra, trong khi đó, di chúc chung của vợ, chồng được lập nên do sự thống nhất của hai vợ, chồng nên pháp luật không thừa nhận một trong hai chủ thể lập di chúc (vợ hoặc chồng) rơi vào tình trạng bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản và một bên còn lại thì không. Hơn nữa, di chúc chung của vợ, chồng được lập ra trên cơ sở thỏa thuận, thống nhất ý chí của vợ, chồng nên đặt trong trường hợp vợ và chồng cùng “bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản” thì tính thống nhất ý chí khó có thể xảy ra được. Phải chăng nếu chúng ta thừa nhận hình thức di chúc chung bằng miệng thì vi phạm đến tính tự nguyện, thỏa thuận, thống nhất của vợ, chồng?

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Hiện nay, pháp luật một số nước trên thế giới cũng không thừa nhận hình thức di chúc miệng; chẳng hạn quy định về hình thức di chúc, Điều 968 BLDS của nước CH Pháp quy định: “Di chúc có thể viết tay, lập công chứng thư hoặc di chúc bí mật”. Pháp luật Việt Nam đã tôn trọng quyền tự do định đoạt của người để lại di chúc cũng như đề cao truyền thống tập tục từ bao đời nay đã tồn tại trong đời sống nên ghi nhận hình thức di chúc miệng, mặc dù di chúc miệng là một loại di chúc mà nó không có cơ sở vững chắc về chứng cứ, khi có tranh chấp xảy ra thì cơ sở để giải quyết rất khó.

Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng di chúc miệng sẽ trở nên phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của chính người lập di chúc lẫn người thừa kế của họ.

Điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam - 9

Kết luận chương 2


Di chúc nói chung, di chúc miệng nói riêng là một loại giao dịch dân sự, do vậy di chúc cũng như các loại giao dịch dân sự khác phải đáp ứng được những điều kiện pháp luật quy định.

Những điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng là những điều kiện bắt buộc, nếu không thỏa mãn các điều kiện luật định này, thì di chúc miệng không có giá trị pháp lý. Những điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng xét theo nội dung, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ và hữu cơ giữa điều kiện chủ thể, sự thể hiện ý chí của chủ thể, nội dung của di chúc và hình thức của di chúc. Những điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng, một mặt phản ánh và nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, mặt khác nhằm để ngăn chặn những hành vi sai trái vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Quyền để lại di chúc của cá nhân luôn được pháp luật bảo hộ, nhưng quyền để lại di chúc của cá nhân phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Khi cá nhân thực hiện quyền dân sự theo chuẩn mực pháp luật, thì quyền đó được pháp luật thừa nhận và giá trị pháp lý của quyền đó cũng được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Ngược lại, những điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng không được thực hiện, thì di chúc miệng không có giá trị pháp lý. Quyền dân sự của cá nhân không những được bảo đảm thực hiện bằng những nguyên tắc pháp luật, mà còn được củng cố bằng những quy định cụ thể để cá nhân thực hiện có hiệu quả bằng hành vi định đoạt tài sản bằng cách để lại di chúc. Di chúc miệng tuân theo và thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng là di chúc hợp pháp. Di chúc hợp pháp thể hiện cụ thể quyền của người để lại di chúc, đồng thời cũng nhằm bảo đảm quyền thừa kế của người thừa kế theo di chúc.

Chương 3‌

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC MIỆNG TẠI TÒA ÁN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DI CHÚC MIỆNG


3.1. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT NHỮNG TRANH CHẤP VỀ TÍNH HỢP PHÁP CỦA DI CHÚC MIỆNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

Tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại Tòa án nhân dân diễn ra vô cùng phức tạp và đa dạng. Trong khuôn khổ đề tài luận văn này, chúng tôi không có tham vọng có thể đưa ra hết được các dạng tranh chấp và bình luận nó. Tuy vậy, trong khuôn khổ nhất định, hy vọng những dạng tranh chấp mà chúng tôi đưa ra là những tranh chấp phổ biến, đúc kết từ kinh nghiệm của cả quá trình nghiên cứu cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng và thừa kế theo di chúc nói chung tại Tòa án nhân dân.

Trước hết, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì không có sự phân loại về tranh chấp các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng mà chỉ tổng hợp về các vụ án tranh chấp về thừa kế. Vì vậy, việc phân tích, đánh giá của chúng tôi dưới đây là phân tích, đánh giá về tranh chấp thừa kế so với tranh chấp dân sự nói chung.

Năm 2000 Tòa án nhân dân cấp huyện đã giải quyết sơ thẩm được

1.126 vụ án tranh chấp thừa kế / tổng số 1.647 vụ phải giải quyết, đạt tỷ lệ giải quyết 68,37%, còn lại 521 vụ chiếm 31,63% (tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung là 80,05%). Trong số các vụ án đã được Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, do có kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân tỉnh đã giải quyết phúc thẩm được 398 vụ/ tổng số 450 vụ, đạt 88,5%; cho rút kháng cáo, kháng nghị 2,5%, còn lại 9%. Trong số đã giải quyết thì Tòa án nhân dân tỉnh đã giữ nguyên

bản án, quyết định sơ thẩm 124 vụ chiếm 31,16%; sửa một phần bản án sơ thẩm 115 vụ chiếm 28,89%; sửa toàn bộ bản án sơ thẩm 40 vụ chiếm 10,05%; hủy và đình chỉ tố tụng 17 vụ chiếm 4,27%; hủy giao về sơ thẩm lại 70 vụ 17,59%; hủy chuyển cơ quan khác giải quyết 7 vụ chiếm 1,76%; hòa giải thành 20 vụ chiếm 5,03%; tạm đình chỉ 1 vụ chiếm 0,25%.

Năm 2000 Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết sơ thẩm được 143 vụ/ tổng số 215 vụ đạt tỷ lệ 67,1%, còn lại 72 vụ chiếm 32,9% (tỷ lệ giải quyết án dân sự sơ thẩm nói chung của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là 67,1%). Trong số các vụ án đã được Tòa án nhân dân tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, do có kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết phúc thẩm được 61 vụ / tổng số 153 vụ, đạt tỷ lệ 39,87%; cho rút kháng cáo, kháng nghị 2 vụ chiếm 1,31%; còn lại 90 vụ chiếm 58,82% (tỷ lệ giải quyết án dân sự theo thủ tục phúc thẩm của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là 54,57%). Trong số các vụ án đã giải quyết, giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 39 vụ chiếm 63,93%; sửa một phần bản án sơ thẩm 8 vụ chiếm 13,13 %; hủy án và đình chỉ tố tụng 2 vụ chiếm 3,28%; hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại 6 vụ chiếm 9,84%; bác kháng cáo kháng nghị vì không hợp lệ 1 vụ chiếm 1,64%; tạm đình chỉ 5 vụ chiếm 8,2%.

Năm 2001 Tòa án nhân dân huyện đã giải quyết sơ thẩm được 1.497 vụ/ tổng số 1.861 vụ chiếm 80,44 %; còn lại 364 vụ chiếm 19,56% (tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung của Tòa án cấp huyện là 78,76%). Trong số các vụ án dân sự mà Tòa án cấp huyện giải quyết, do có kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết theo thủ tục phúc thẩm được 186 vụ/ tổng số 225 vụ chiếm 82,67%; cho rút kháng cáo, kháng nghị 6 vụ chiếm 2,67%; còn lại 33 vụ chiếm 14,67% (tỷ lệ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm án dân sự nói chung 84,31%). Trong số đã giải quyết thì giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 77 vụ chiếm 41,4 %; sửa một

phần bản án sơ thẩm 47 vụ chiếm 25,27%; sửa toàn bộ án sơ thẩm 8 vụ chiếm 4,3%; hủy án sơ thẩm và đình chỉ tố tụng 9 vụ chiếm 4,84%; hủy án sơ thẩm, giao sơ thẩm lại 31 vụ chiếm 16,67%; bác kháng cáo, kháng nghị vì không hợp lệ 4 vụ chiếm 2,15%; hòa giải thành 10 vụ chiếm 5,38%.

Năm 2001 Tòa án nhân dân tỉnh đã giải quyết sơ thẩm 87 vụ/ tổng số 123 vụ, chiếm tỷ lệ 70,73%, còn lại 36 vụ chiếm 29,27% (tỷ lệ giải quyết theo trình tự sơ thẩm đối với án dân sự nói chung là 73,09%). Do có kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát, các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết được 74 vụ/ tổng số 170 vụ chiếm 43,53%; cho rút kháng cáo, kháng nghị 6 vụ chiếm 3,53%; còn lại 90 vụ chiếm 52,94%. Trong các vụ án đã giải quyết: Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 36 vụ chiếm 48,65%; sửa một phần án sơ thẩm 17 vụ chiếm 22,97%; hủy và đình chỉ tố tụng 3 vụ chiếm 4,05%; hủy giao sơ thẩm lại 16 vụ chiếm 21,62%; bác kháng cáo, kháng nghị vì không hợp lệ 1 vụ chiếm 1,35%; hòa giải thành 1 vụ chiếm 1,35% [46].

Năm 2002 Tòa án nhân dân cấp huyện đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm được 1.733 vụ/ tổng số 2.419 vụ chiếm 71,64% (tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung là 75,04%); còn lại 686 vụ chiếm 28,36%. Trong số các vụ án do Tòa án cấp huyện giải quyết, do có kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết được 295 vụ/ tổng số 368 vụ chiếm 80,16% (tỷ lệ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh đối với án dân sự nói chung là 84,55%); cho rút kháng cáo 9 vụ chiếm 2,45%; còn lại 17,39%. Trong số này, giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 104 vụ chiếm 35,25%; sửa một phần bản án sơ thẩm 72 vụ chiếm 24,41%; hủy và đình chỉ tố tụng 4 vụ chiếm 1,36%; hủy giao sơ thẩm lại 40 vụ chiếm 13,56; hủy giao cơ quan hành chính khác giải quyết 2 vụ chiếm 0,6%; bác kháng cáo, kháng nghị do không hợp lệ 2 vụ chiếm 0,6%; hòa giải thành 18 vụ chiếm 6,1%; tạm đình chỉ 9 vụ chiếm 3,05%.

Năm 2002 Tòa án nhân dân tỉnh đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm được 100 vụ/ 185 vụ chiếm 54,05% (so với giải quyết án dân sự nói chung là 70%); còn lại 85 vụ chiếm 45,95%. Sau khi Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, do có kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát, nên các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết được 53 vụ/ tổng số 113 vụ chiếm 46,9% (so với tỷ lệ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm án dân sự nói chung của 3 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là 61,69%); số việc còn lại 60 vụ chiếm 53,1%. Trong số các vụ đã giải quyết: Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 30 vụ chiếm 56,6%; sửa một phần bản án sơ thẩm 7 vụ chiếm 13,21%; sửa toàn bộ bản án sơ thẩm 1 vụ chiếm 1,89%; hủy và đình chỉ tố tụng 4 vụ chiếm 7,55%; hủy án giao sơ thẩm lại 11 vụ chiếm 20,75% [47].

Năm 2003 Tòa án nhân dân cấp huyện đã xét xử sơ thẩm được 1.870 vụ/ 3.156 vụ chiếm 59,25% (tỷ lệ giải quyết sơ thẩm án dân sự nói chung của Tòa án nhân dân cấp huyện 74,11%), còn lại 1.286 vụ chiếm 40,75%. Do có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã xử phúc thẩm được 627 vụ/ 771 vụ chiếm 81,32% (so với tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung là 80%); cho rút kháng cáo, kháng nghị 21 vụ chiếm 2,72%; còn lại 15,95%. Trong số các vụ án đã giải quyết thì giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 167 vụ chiếm 26,63%; sửa một phần bản án sơ thẩm 245 vụ chiếm 39,07%; sửa toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm 39 vụ chiếm 6,22%; hủy và đình chỉ tố tụng 33 vụ chiếm 5,26%; hủy giao sơ thẩm lại 127 vụ chiếm 20,26%; bác kháng cáo, kháng nghị do không hợp lệ 5 vụ chiếm 0,8%; hòa giải thành 7 vụ chiếm 1,12%; tạm đình chỉ 4 vụ chiếm 0,64%.

Năm 2003 Tòa án nhân dân tỉnh đã xét xử sơ thẩm được 220 vụ/ tổng số 373 vụ chiếm 58,98% (so với án dân sự nói chung là 63,05%); còn lại 153 vụ chiếm 41,02%. Do có kháng cáo, kháng nghị, các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử phúc thẩm được 86 vụ/114 vụ chiếm 75,44% (so với tỷ

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 06/06/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí