nghiệp như chỉ tiêu về qui mô vốn, lao động, doanh số, phân ngành bán buôn, bán lẻ,…lại chưa được thống kê. Mặt khác, trong chỉ tiêu này lại bao gồm cả các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng thuộc ngành du lịch. Những hạn chế này cũng tồn tại trong chỉ tiêu thống kê về tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội. Bên cạnh đó, trong các tài liệu thống kê ở phạm vi ngành và quốc gia hiện nay hoàn toàn thiếu vắng các chỉ tiêu liên quan đến các hoạt động của thương mại dịch vụ phân phối.
Do đó, Nhà nước cần cải cách hệ thống các chỉ tiêu thống kê nói chung và đối với ngành dịch vụ phân phối nói riêng đảm bảo thu thập thông tin và phản ánh sát thực các xu hướng phát triển: Đối với ngành DVPP, các chỉ tiêu thống kê đối với phân ngành dịch vụ bán buôn và bán lẻ phải phân tách được doanh số bán buôn, doanh số bán lẻ, phân tách theo hình thức sở hữu, theo lãnh thổ, cơ cấu, theo phương thức thực hiện giao dịch. Các chỉ tiêu thống kê liên quan đến các chủ thể hoạt động trong ngành dịch vụ phân phối phải phản ánh được cơ cấu theo quy mô, cơ cấu theo lãnh thổ, cơ cấu theo hình thức sở hữu.
2.1.2. Khẩn trương xây dựng cơ cấu ngành dịch vụ phân phối hợp lý theo một chiến
lược mang tính dài hạn hơn.
Một thực tế là ngành dịch vụ phân phối ở nước ta hiện vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý như: 1) Thương nghiệp nhỏ hiện vẫn chiếm tỷ trọng quá lớn. Điều này là hoàn toàn trái ngược với xu hướng phát triển nhanh của sản xuất và tiêu dùng trong nước; 2) Sự suy giảm nhanh cả về số lượng và vai trò của các nhà bán buôn – các công ty thương nghiệp cấp I và cấp II - trước đây, trong khi khu vực tư nhân chưa đủ lớn mạnh, các nhà sản xuất chưa tự kiểm soát được hệ thống phân phối đã dẫn đến sự bất hợp lý trong việc kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng; 3) Cơ cấu ngành dịch vụ phân phối theo lãnh thổ cũng đang có sự bất hợp lý do sự phát triển các cơ sở kinh doanh tập trung quá mức tại các đô thị, các khu vực tập trung dân cư.
Để giải quyết vấn đề này, nhà nước cần phải nhanh chóng thiết lập cơ cấu ngành dịch vụ phân phối hợp lý theo hướng đẩy nhanh quá trình hình thành các nhà phân phối lớn trong nước có khả năng phát triển mạng lưới phân phối trong phạm vi cả nước và nước ngoài. Để hình thành các nhà phân phối lớn, Nhà nước cần dựa
trên cơ sở đặc trưng phân phối sản phẩm của từng ngành hàng, từng khu vực thị trường và các xu hướng thay đổi phát triển của hệ thống phân phối. Trong đó, các xu hướng thay đổi, phát triển của hệ thống phân phối. Trong đó, các xu hướng phát triển chính của hệ thống phân phối bao gồm: 1) Lĩnh vực phân phối ngày càng trở nên tập trung hơn. Điều này có nghĩa là sẽ hình thành các nhà phân phối lớn có quan hệ gần gũi với các nhà sản xuất và các nhà bán lẻ; 2) Vai trò của các nhà bán buôn truyền thống trong một số ngành hàng, nhất là những ngành hàng tiêu dùng thông thường sẽ bị suy giảm trên thị trường do các hãng bán lẻ lớn mở rộng buôn bán tận gốc, hoặc do nhà sản xuất muốn kiểm soát việc phân phối. Trong giải pháp này các nội dung cụ thể cần được thực hiện bao gồm:
- Khuyến khích các nhà bán lẻ trong nước liên kết với nhau hoặc phát triển thành chuỗi cửa hàng bán lẻ đối với các mặt hàng tiêu dùng thông dụng, các mặt hàng thực phẩm;
- Hình thành các hãng cung cấp trọn gói hàng hoá trong các ngành hàng có giá trị cao như đồ nội thất, các mặt hàng thiết bị…
- Hình thành các hãng bán buôn lớn đối với các mặt hàng nông sản tiêu thụ với khối lượng lớn.
Có thể bạn quan tâm!
- Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Trong Lĩnh Vực Dịch Vụ Phân Phối Còn Yếu.
- Khả Năng Liên Kết Giữa Các Nhà Phân Phối Trong Nước Còn Yếu
- Giải Pháp Để Việt Nam Thực Hiện Tốt Các Cam Kết Trong Wto Về Mở Cửa Dịch Vụ
- Dịch vụ phân phối và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO - 12
- Dịch vụ phân phối và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO - 13
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
2.1.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
đối với hệ thống phân phối.
Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của nền kinh tế và của người tiêu dùng do những thoả thuận trong mối quan hệ theo chiều dọc giữa nhà sản xuất và các nhà phân phối gây nên, Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp như:
- Đưa ra quy định nhằm kiểm soát giá bán lẻ, các hình phạt đối với biểu hiện độc quyền qua giá bán lẻ;
- Quy định khung tỷ lệ chiết khấu giữa các nhà sản xuất với các nhà bán buôn và giữa các nhà bán buôn với các nhà bán lẻ.
- Quy định các hình thức và phương thức khuyến mại của các nhà sản xuất dành cho các nhà phân phối bán buôn và bán lẻ;
- Đưa ra các quy định cụ thể về điều kiện tham gia thị trường đối với các chủ thể bán buôn và bán lẻ;
- Các quy định nhằm tăng cường tính pháp lý trong quan hệ giữa các đối tượng trong hệ thống phân phối…
2.1.4. Chủ động xây dựng các biện pháp phi thuế quan phù hợp để quản lý hoạt
động của DVPP nước ngoài.
Giờ đây các nhà phân phối nước ngoài đã hoàn toàn có thể thành lập công ty 100% vốn ở Việt Nam trong lĩnh vực phân phối. Với những ưu thế về kinh nghiệm, vốn, công nghệ…họ đang là mối lo ngại đối với các doanh nghiệp phân phối trong nước. Nếu như Việt Nam không có những biện pháp quản lý chặt ngay từ đầu thì thị trường phân phối của Việt Nam rất có khả năng bị thâu tóm bởi các công ty phân phối nước ngoài. Việt Nam cần phải đặt ra những quy định “bản lề” khi xem xét cấp phép cho DN nước ngoài. Đó là ưu tiên khuyến khích các DN có công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến; có tiềm lực kinh tế (đặt ra mức tối thiểu về vốn đầu tư); giám sát chặt việc xây dựng hệ thống cửa hàng bán buôn, bán lẻ của DN nước ngoài theo quy hoạch; khi cấp phép cơ sở bán lẻ thứ nhất phải xem xét các tiêu chí như việc xin phép mở cơ sở thứ hai; ngoài ra, cần quy định rõ nếu trong thời gian 6 tháng sau khi cấp phép mà DN nước ngoài không hoạt động thì các địa phương có quyền thu hồi giấy phép XNK.
2.2. Nhóm giải pháp đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối
2.2.1. Chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên cho
doanh nghiệp mình.
Là thành viên chính thức của WTO, bước vào một sân chơi thương mại toàn cầu bình đẳng, lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp phân phối nói riêng cần phải nâng cao nhận thức và am hiểu pháp luật về thương mại quốc tế, nâng cao trình độ quản lý và khả năng nhanh nhạy đáp ứng với tình hình kinh doanh theo môi trường và thông lệ quốc tế. Muốn thế, mỗi doanh nghiệp DVPP phải xây dựng cho mình kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực đủ về số lượng, tốt về chất lượng.
Các doanh nghiệp phân phối cũng phải chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho nguồn nhân lực của mình phù hợp với từng mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Cần chủ động và tích cực đổi mới mô hình tổ chức, công nghệ quản lý và phương thức kinh doanh theo hướng chuyên nghiệp hoá, hiện đại hoá; có chiến lược phát triển doanh nghiệp theo những mô hình thích hợp như xây dựng thành tập đoàn, công ty mẹ - con, công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh hàng hoá chuyên ngành hay tổng hợp; thức hiện dịch vụ phân phối hay logistics…
2.2.2. Tìm kiếm các giải pháp đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh của bảnthân doanh nghiệp.
Hiện nay, tỷ lệ giữa kênh phân phối truyền thống và hiện đại của Việt Nam có sự chênh lệch khá cao. Kênh phân phối truyền thống ở Việt Nam đang chiếm tới 85%. Đây cũng chính là sức hấp dẫn của thị trường tiêu thụ ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đối tác nước ngoài nắm giữ được 85% thị phần hệ thống phân phối vẫn còn rời rạc và manh mún này, thì họ có thể thống lĩnh được thị trường tiêu thụ của Việt Nam. Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài có thể vượt qua được các rào cản về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia của Việt Nam thông qua các cuộc đàm phán thương mại quốc tế nhưng họ sẽ vấp phải một rào cản vô hình và khó khăn hơn rất nhiều là văn hoá tập quán và thói quen tiêu dùng của người dân nước ta. Đây chính là lợi thế mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng và phát huy.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng phải nhận thức được sức mạnh của sự liên kết với nhau thành những tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn, phát triển rộng khắp ở mọi phân đoạn thị trường để tiến tới xây dựng hệ thống phân phối và bán lẻ đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài.
Trong xây dựng chiến lược cạnh tranh cả ngành trước hết phải phù hợp với chiến lược phát triển tổng thể của đất nước, đồng thời phải phù hợp với chiến lược phát triển của từng vùng, miền và phù hợp với chiến lược phát triển các ngành khác như chiến lược xây dựng sản phẩm quốc gia, chiến lược xây dựng thương hiệu…để
tạo sự đồng bộ, nhất quán, từ đó sẽ tạo sức mạnh tổng hợp và tăng năng lực cạnh tranh của ngành trong bối cảnh mới.
Ngoài sự hỗ trợ của nhà nước, bản thân các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ cần nắm bắt các mô hình bán lẻ trên thế giới và định hướng đúng hình thức đầu tư sao cho phù hợp với đặc trưng của thị trường nội địa. Đây là lợi thế cạnh tranh duy nhất. Các đại gia quốc tế dù có phung phí tiền bạc cho công tác nghiên cứu thị trường, thì cũng không ai hiểu sân nhà bằng chính doanh nghiệp trong nước.
Không giống như những dịch vụ hay sản phẩm khác, bản thân điểm bán lẻ chính là nơi quảng bá thương hiệu bán lẻ hiệu quả nhất. Việc đầu tư vào một hệ thống nhận diện thương hiệu bán lẻ (bao gồm logo, màu sắc, cách thức và vật liệu trang trí) rất quan trọng, vì không chỉ đóng vai trò như quảng cáo ngoài trời mà còn gắn liền ngày với hình ảnh cửa hiệu. Hình ảnh này cũng gắn liền với cách trưng bày hàng hoá bên trong, vốn là những công cụ quảng bá kinh điển của cửa hàng bán lẻ. Các hình thức khuyến mãi là chiêu thức không thể thiếu, đặc biệt là các tác nghiệp giảm giá theo mùa, thu hút khách đến bằng những mặt hàng đại hạ giá.
Hầu hết các thương hiệu bán lẻ thành công đều có quy mô lớn với mạng lưới bán lẻ rộng khắp. Hoạch định mạng lưới bán lẻ vì thế là công tác chiến lược của ngành kinh doanh này. Việc hình thành mạng lưới không chỉ hữu ích trong công tác định vị và quảng bá thương hiệu mà còn giúp thương hiệu có sức mạnh quy mô.
Các nhà bán lẻ Việt Nam nên mở rộng và khai thác thương hiệu riêng. Một khi đã tạo dựng được thương hiệu đủ mạnh, nhà bán lẻ hoàn toàn có thể dùng chính thương hiệu của mình để mở rộng sang cung ứng các sản phẩm. Người tiêu dùng khi đó sẽ hoàn toàn yên tâm với các sản phẩm mang thương hiệu của trung tâm mua sắm mà mình tin tưởng.
Thời điểm 01/01/2009 cho phép các nhà phân phối nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn tại Việt Nam đã được thực hiện theo đúng cam kết gia nhập, do vậy tình hình đòi hỏi chính phủ và các nhà phân phối và bán lẻ nước ta rất phải rất khẩn trương trong việc xây dựng, củng cố hệ thống phân phối và bán lẻ nhằm tăng sức cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ hùng mạnh trên thế giới.
2.3. Một số giải pháp khác.
2.3.1. Tăng cường vai trò của hệ thống phân phối của từng doanh nghiệp
- Đối với hệ thống phân phối liên kết dọc
Phát triển liên kết là phát triển sự phân công theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu dùng, trong đó các hệ thống được chuyên môn hoá nhằm thực hiện phân phối, tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả trên thị trường.
Để phát triển được các hệ thống phân phối liên kết dọc, các doanh nghiệp phải đặt phân phối ở trung tâm của chiến lược kinh doanh, coi phân phối là nhiệm vụ trọng yếu trong dài hạn và đầu tư nguồn lực đầy đủ cho phân phối. Để có các hệ thống phân phối liên kết dọc hiệu quả, các doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ các qui trình tổ chức hệ thống phân phối. Đó là kết quả của quá trình tư duy chiến lược, quá trình làm thích ứng các hoạt động bên trong doanh nghiệp với các tổ chức bên ngoài có liên quan trong kinh doanh. Đặc biệt, tổ chức hệ thống phân phối phải là kết quả của quá trình đàm phán thiết lập các quan hệ trong kinh doanh.
Doanh nghiệp cần xác định cụ thể cấu trúc của hệ thống phân phối với các thành viên cụ thể và những công việc tương ứng phù hợp với năng lực của họ, cần xác lập mức độ và kiểu liên kết giữa các thành viên trong hệ thống. Có nhiều kiểu tổ chức hệ thống phân phối theo những mô hình liên kết giữa các thành viên khác nhau. Các doanh nghiệp phải tuỳ thuộc điều kiện cụ thể của mình để lựa chọn mô hình tổ chức hệ thống thích hợp. Yêu cầu có tính quy luật là các doanh nghiệp nên liên kết với nhau theo mức độ từ thấp đến cao, từ liên kết ở một số cấp độ phân phối đến liên kết trong toàn bộ hệ thống.
Tuỳ thuộc điều kiện cụ thể, doanh nghiệp có thể lựa chọn 4 loại hình tổ chức như sau:
o Tổ chức các hệ thống liên kết dọc được quản lý
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong hệ thống phân phối truyền thống cần tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau và khả năng điều khiển hệ thống để dần chuyển thành hệ thống liên kết dọc được quản lý. Nghĩa là mức độ phụ thuộc lẫn nhau và các hoạt động liên kết trong hệ thống ngày càng phổ biến hơn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ gồm cả các nhà sản xuất và các trung gian thương mại cần tăng mức độ quản lý
các quan hệ kinh doanh. Nhiều kênh phân phối truyền thống qua các trung gian thương mại ở các chợ có thể chuyển sang hệ thống liên kết dọc do một nhà bán buôn giữ vai trò lãnh đạo hệ thống. Doanh nghiệp sẽ phải xác định những hoạt động phối hợp chung trong hệ thống liên kết dọc được quản lý.
Hệ thống phân phối liên kết dọc được quản lý có thể phát triển từ thấp đến cao và có thể phát triển từ một số khâu trong quá trình lưu thông hàng hoá cho tới toàn bộ quá trình từ sản xuất tới bán buôn, bán lẻ và tiêu dùng. Tuỳ theo diễn biến của thị trường và thực trạng cũng như khả năng của mình, doanh nghiệp cần chủ động phát triển hệ thống liên kết doanh nghiệp được quản lý để mở rộng và phát triển hệ thống phân phối một cách hiệu quả nhất.
o Tổ chức hệ thống phân phối hợp đồng dưới hình thức tổ chức hợp tác bán lẻ và chuỗi bán lẻ do người bán buôn đảm bảo.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì cần phải tổ chức hệ thống phân phối kiểu tổ chức hợp tác bán lẻ để tạo ra sức mạnh đàm phán trong hệ thống. Khi tham gia các tổ chức hợp tác, họ có thể ký hợp đồng mua theo số lượng lớn với giá và điều kiện cung cấp ưu đãi từ nhà sản xuất hoặc cùng hợp tác để thực hiện xúc tiến trên thị trường. Những nhà bán buôn cần phát triển các hợp đồng cung cấp hàng hoá cho một số người bán lẻ nhất định ở từng khu vực thị trường để đảm bảo kinh doanh ổn định.
Vấn đề quan trọng trong tổ chức hệ thống phân phối này là cần có qui hoạch tổng thể các thành viên của toàn hệ thống. Mỗi đại lý hay nhà bán lẻ mới tham gia vào hệ thống đều phải nằm trong kế hoạch phát triển của doanh nghiệp để hàng hoá tới đúng thị trường mục tiêu, để các thành viên không giẫm chân lên nhau. Nội dung hợp đồng phải chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi giữa các thành viên.
Một thị trường đầy tiềm năng mà các các doanh nghiệp còn chưa quan tâm đúng mức là nông thôn. Các doanh nghiệp có thể thông qua việc tổ chức các liên kết theo hợp đồng để thực hiện trao đổi, mua bán sản phẩm với thị trường nông thôn và qua đó trở thành động lực thúc đẩy nông thôn phát triển. Trước hết những doanh nghiệp kinh doanh vật tư nông nghiệp, thu mua nông sản chế biến và xuất khẩu, hàng công nghệ phẩm cần phải thiết lập được những quan hệ hợp đồng với nông dân để cung cấp vật tư nông nghiệp và tiêu thụ được nông sản của họ. Các doanh
nghiệp cần phát triển các quan hệ hợp đồng với nông dân để đảm bảo quan hệ buôn bán bình đẳng với họ. Các hợp tác xã kiểu đại lý mua và bán cho nông dân có thể đóng vai trò là thành viên quan trọng trong các kênh trao đổi với nông dân.
o Tổ chức hệ thống phân phối bằng hợp đồng kiểu đặc quyền kinh tiêu
Phát triển các hệ thống phân phối theo hợp đồng đặc quyền kinh tiêu sẽ mang lại sức mạnh quản lý và điều hành hệ thống, tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống. Nội dung hợp đồng của liên kết dọc đặc quyền kinh tiêu tạo cho người sản xuất cơ sở pháp lý để thực hiện quản lý hệ thống. Người chủ quyền có sức mạnh quan trọng để điều khiển các đại lý đặc quyền theo truyền thống. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thấy đây là quan hệ kinh doanh hai bên cùng có lợi để cùng nhau đàm phán hình thành các hợp đồng đặc quyền kinh tiêu hiệu quả. Các doanh nghiệp lớn, sản phẩm có tiếng tăm trên thị trường cần chủ động phát triển các quan hệ đặc quyền kinh tiêu để khai thác thị trường có hiệu quả. Các doanh nghiệp cần biết đầu tư, tạo lập uy tín hình ảnh cho nhãn hiệu của mình, phát triển bí quyết công nghệ, kinh nghiệm quản lý để có thể khai thác phát triển thị trường qua phương thức đặc quyền kinh tiêu.
Những người nhận quyền cần biết khai thác quyền kinh doanh của mình đã mua sao cho có hiệu quả. Để các hợp đồng đặc quyền kinh tiêu có sức sống lâu dài đòi hỏi cả hai bên người chủ quyền và người nhận quyền phải nghiên cứu về nhau và về điều kiện thị trường cẩn thận. Những điều khoản của hợp đồng phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để tránh thiệt hại cho mỗi bên.
o Tổ chức hệ thống phân phối tập đoàn hiện có và phát triển hệ thống tập đoàn của các doanh nghiệp có điều kiện.
Trong tổ chức hệ thống phân phối tập đoàn, doanh nghiệp phải xác định bao nhiêu đơn vị thành viên, qui mô mỗi thành viên thế nào? Bố trí trên các khu vực thị trường ra sao và phân chia công việc phân phối cụ thể, phạm vi trách nhiệm cho từng đơn vị.
- Các mặt hàng công nghiệp thiết yếu đối với đời sống kinh tế xã hội như thép, than, xi măng, xăng dầu, hoá chất cơ bản cần phát triển các hệ thống tập đoàn do doanh nghiệp Nhà nước làm nòng cốt. Tuy nhiên, các tổng công ty đã tổ chức