Kiến thức, nhân viên CTXH thực hiện các hoạt động CTXH với nam giới gây bạo lực có trình độ và được trang bị một cách đầy đủ kiến thức về CTXH, tâm lý học, xã hội học, giới, chính sách, luật pháp có liên quan cũng như những chuyên ngành cần thiết khác sẽ giúp triển khai các dịch vụ CTXH đối với nam giới gây bạo lực tốt hơn. Trình độ chuyên môn luôn ảnh hưởng hoạt động CTXH vì khi có trình độ chuyên môn cao, nhân viên CTXH có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ của mình như kết nối nguồn lực, tham vấn, tư vấn cho Nam giới, từ đó có thể trợ giúp cho các thành viên nhóm một cách hiệu quả. Nếu trình độ chuyên môn hạn chế có thể khiến các thành viên trong nhóm chưa tin tưởng vào sự điều phối của nhân viên CTXH.
Vai trò năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách địa phương góp phần trực tiếp đến sự hiệu quả trong công tác triển khai dịch vụ PCBLGĐ bởi những vai trò như: Tham gia sàng lọc, phân loại và tiếp nhận đối tượng; Thực hiện đánh giá tâm lý, tình trạng sức khoẻ, nhân thân và các nhu cầu của đối tượng; Đề xuất kế hoạch và trực tiếp thực hiện kế hoạch chăm sóc khẩn cấp cho đối tượng, nhóm đối tượng trong địa bàn mình phụ trách; Tham gia cung cấp, thực hiện các dịch vụ CTXH với người gây bạo lực trên cơ sở sử dụng các lý thuyết, phương pháp, kỹ năng thực hành CTXH như : Tham vấn, hoà giải, truyền thông phòng ngừa BLGĐ trong địa bàn phụ trách; Kết nối và chuyển gửi đối tượng tới các dịch vụ trợ giúp tại địa phương và tuyến cao hơn; Tham gia rà soát, giám sát, đánh giá các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ và phục hồi đối với các trường hợp cụ thể và đề xuất kế hoạch chỉnh sửa nếu cần thiết; Tham gia thu thập dữ liệu, tổng hợp và báo cáo số liệu, hiệu quả của công việc trong phạm vi được giao; Thực hiện biện hộ luật pháp, chính sách liên quan tới BLGĐ cho đối tượng.
Kỹ năng, NVCTXH được trang bị một số kỹ năng khi làm việc với nam giới gây bạo lực (NGGBL) bao gồm: Kỹ năng tạo lập mối quan hệ với thân chủ là NGGBL; Kỹ năng làm việc với nam giới có xu hướng GBL; Kỹ năng đặt câu hỏi; Kỹ năng nghe tích cực; Kỹ năng thăm dò; Kỹ năng quan sát; Kỹ năng đối chất…
Thái độ, NVCTXH khi làm việc với nam giới GBL nếu bảo đảm các nguyên tắc sau sẽ góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng quá trình cung cấp dịch vụ với thân chủ là NGGBL:
(1) Chấp nhận NGGBL
Thân chủ là NGGBL là những người có hoàn cảnh, điều kiện sống, tâm lý hoặc tính cách có vấn đề. Chính vì vậy trong quá trình tiếp cận và làm việc với nam giới GBL nếu nhân viên có thái độ tôn trọng phẩm giá con người và chấp nhận họ kể cả khi tính cách hung hãng của họ chưa được kiềm chế thì hiệu quả tác động của dịch vụ sẽ cao hơn. Chẳng hạn, làm việc với NGGBL tại nơi riêng hoặc ở nơi công cộng nhưng vẫn đảm bảo sự riêng tư cho cuộc nói chuyện thì sự tin tưởng của NGGBL sẽ cao hơn. Thực hiện nguyên tắc này giúp cho nhân viên CTXH tạo được lòng tin từ NGGBL qua đó thúc đẩy sự hợp tác và chia sẻ của họ, đó là nền tảng cho thiết lập mối quan hệ nghề nghiệp thể hiện sự tương tác trong quá trình giúp NGGBL trong suốt quá trình làm việc với họ sau này.
(2) Tính cá thể hoá
Mỗi con người bình thường đều có những nhu cầu cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, từng hoàn cảnh khác nhau, con người cũng có những nhu cầu khác nhau. NGGBL cũng như vậy, mỗi người có những tính cách khác nhau và những mong muốn, nhu cầu nguyện vọng khác nhau. Mỗi gia đình của họ cũng có những đặc điểm riêng. Việc cá biệt hoá trường hợp của NGGBL giúp nhân viên đưa ra phương pháp giúp đỡ thích hợp với từng trường hợp cụ thể. Trong quá trình làm việc với NGGBL, nhân viên CTXH tìm hiểu và phát hiện những nét đặc thù của trường hợp đó, linh hoạt trong giải quyết vấn đề, không áp dụng cách giải quyết giống nhau cho các trường hợp. Giải pháp cho mỗi trường hợp cần được cân nhắc trên cơ sở nhu cầu, đặc điểm tâm lý, khả năng và nguồn lực mà họ có. Thực hiện nguyên tắc này trong quá trình làm việc với NGGBL sẽ cho phép nhân viên CTXH đáp ứng nhu cầu của NGGBL và rèn luyện khả năng ứng phó linh hoạt trong giải quyết vấn đề và quá trình trợ giúp họ.
(3) Tôn trọng quyền tự quyết của NGGBL
Với nguyên tắc này, nhân viên CTXH không quyết định thay cho NGGBL mà chỉ đóng vai trò là người xúc tác và giúp đỡ để NGGBL đưa ra quyết định đúng đắn, phù hợp với suy nghĩ và hoàn cảnh của chính bản thân họ. Quyền quyết định lựa chọn giải pháp nào là tuỳ thuộc vào NGGBL. Sự tôn trọng quyết định mà NGGBL đưa ra, không áp đặt ý kiến của cá nhân trong việc lựa chọn giải pháp cho vấn đề thay cho NGGBL sẽ là cách mà nhân viên giúp cho khách hàng trở nên tự tin, nâng cao khả năng đưa ra quyết định đúng đắn trong cuộc sống.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Khó Khăn Và Nhu Cầu Của Nam Giới Gây Bạo Lực Gia Đình
- Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Với Nam Giới Gây Bạo Lực Gia Đình
- Mô Hình Câu Lạc Bộ Cung Cấp Dịch Vụ Cho Nam Giới Gây Bạo Lực
- Đặc Điểm Địa Bàn Khảo Sát Và Mẫu Phỏng Vấn
- Tỷ Lệ Các Hành Vi Bạo Lực Kinh Tế Của Nam Giới Với Vợ Trong Vòng 12 Tháng Qua (%) (N=300)
- Thực Trạng Hiểu Biết Và Nhu Cầu Của Nam Giới Tiếp Cận Với Các Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Nhằm Giảm Thiểu Bạo Lực Gia Đình
Xem toàn bộ 301 trang tài liệu này.
(4) Tính bảo mật thông tin cho NGGBL
Bảo mật các thông tin cá nhân của NGGBL sẽ làm tăng sự tin cậy của NGGBL và tạo điều kiện cho việc thu thập thông tin cũng như các hoạt động giúp đỡ họ đạt hiệu quả cao. Mọi thông tin của NGGBL luôn cần được giữ kín, không được tiết lộ trừ khi được chính bản thân họ đồng ý. Nhân viên CTXH quán triệt tốt nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện để NGGBL chân thành cởi mở, bộc lộ được nhiều cảm xúc, tâm trạng và những khó khăn của họ. Nhân viên CTXH cần được lưu trữ hồ sơ của NGGBL cẩn thận, có khoá tủ và phải có mật khẩu trong máy tính. Khi tham vấn hay phỏng vấn NGGBL cần đảm bảo không gian yên tĩnh và riêng tư cho cuộc trò chuyện. Nhân viên tránh trao đổi hay hỏi chuyện về những vấn đề mang tính tế nhị của NGGBL ở những chỗ đông người, tránh quay phim chụp ảnh khi NGGBL không đồng ý, cũng không nên sử dụng băng hình hay ghi âm trong khi trò chuyện với NGGBL nếu họ không chấp nhận.
(5) Đảm bảo dịch vụ kịp thời
Nguyên tắc này nhấn mạnh tới sự cam kết của nhân viên CTXH đối với việc tôn trọng quyền của NGGBL và trách nhiệm của họ khi cung cấp dịch vụ. Trong các hoàn cảnh khác nhau, nhân viên CTXH có thể gặp những khó khăn nhất định trong việc tìm kiếm và kết nối nguồn lực đảm bảo chất lượng đối với NGGBL. Để làm tốt nguyên tắc này, nhân viên CTXH phải tuân thủ tốt các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, tăng cường trau dồi chuyên môn và phát triển năng lực tự nhận thức bản thân để có khả năng kết nối, điều hành, giám sát và trực tiếp cung cấp các dịch vụ thực sự chất lượng nhất cho NGGBL trong quá trình làm việc với họ.
(6) Đảm bảo công bằng
Việc đảm bảo sự công bằng là một nguyên tắc rất quan trọng trong suốt quá trình làm việc với NGGBL. Đảm bảo công bằng được thể hiện ở những nội dung như:
Trong tiếp nhận thông tin: Khi tiếp nhận thông tin nhân viên CTXH cần xác định sự khách quan, trung thực. Nhân viên CTXH khi tiếp nhận thông tin phải hành động nhanh: đặt câu hỏi tập trung vào vấn đề chính, tránh đặt câu hỏi rườm rà, khó hiểu khiến NGGBL phải suy nghĩ lâu hoặc trả lời không chính xác.
Trong nhận định, đánh giá xem xét các nhu cầu, sắp xếp thứ tự ưu tiên các nhu cầu của NGGBL: Khi nghe các nhu cầu của NGGBL, NVCTXH cần tiếp nhận đầy đủ tất cả các nhu cầu, từ đó xem xét tất cả các nhu cầu trong điều kiện và môi trường sống
của NGGBL để có sự nhìn nhận nhu cầu nào cần giải quyết và nhu cầu nào không chính đáng.
Trong việc chuẩn bị cơ sở vật chất, thời gian và các dịch vụ hỗ trợ, giúp đỡ cũng như tất cả các dịch vụ liên quan về NGGBL: Nhân viên CTXH cần xem xét tất cả các nguồn lực hiện có, tìm hiểu các dịch vụ có thể giúp đỡ NGGBL, mức độ giúp đỡ để tạo sự cân bằng giữa NGGBL và gia đình.
Trong việc bảo mật cho NGGBL: Việc bảo mật về thông tin, hiện trạng và thái độ của NGGBL trong quá trình làm việc với NGGBL là nguyên tắc quan trọng giúp NGGBL tự tin, thành khẩn và hợp tác với NVCTXH hơn.
(7) Đảm bảo mối quan hệ nghề nghiệp
Trong tiến trình làm việc với NGGBL, nhân viên CTXH cần có phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp. Những hành vi thể hiện mối quan hệ nghề nghiệp của nhân viên CTXH với NGGBL như tôn trọng quan điểm giá trị, nguyên tắc nghề nghiệp; không lợi dụng vai trò của mình để đòi hỏi sự hàm ơn của NGGBL, tuyệt đối không để có quan hệ nam nữ trong khi thực hiện sự trợ giúp. Mối quan hệ giữa nhân viên CTXH và NGGBL cần đảm bảo tính thân thiện, tương tác hai chiều, song khách quan và đảm bảo yêu cầu của chuyên môn.
(8) Tự ý thức về bản thân của nhân viên CTXH khi làm việc với NGGBL
Tự ý thức về bản thân là một trong những nguyên tắc không thể thiếu của nhân viên CTXH khi làm việc với NGGBL. Điều này giúp nhân viên CTXH biết giới hạn về quyền lực của mình, có ý thức hoàn thiện bản thân để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao phó, để họ vượt qua khả năng của nhân viên CTXH và cần chuyển tuyến. Việc ý thức được yếu tố này giúp cho nhân viên CTXH trung thực trong công việc, trung thực với khả năng của bản thân [44].
2.4.3 Yếu tố gia đình
Trong bất kể lĩnh vực, vấn đề nào xảy ra với con người trong cuộc sống thì yếu tố gia đình luôn đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng chi phối và tác động đến cá nhân mỗi người. Bởi con người luôn là một thành viên của gia đình. Trong quá trình triển khai dịch vụ CTXH với NGGBL cũng vậy yếu tố gia đình đóng góp một phần quan trọng góp phần đưa đến kết quả. Bởi lẽ gia đình là môi trường thân cận, gần gũi nhất đối với NGBL và có những ảnh hưởng quan trọng đến nhận thức và hành vi của NGBL. Gia đình ở đây bao gồm cả gia đình lớn gồm nhiều thế hệ và
gia đình hạt nhân. Yếu tố gia đình ảnh hưởng đến việc NGGBL tiếp cận các dịch vụ CTXH được thể hiện ở:
1, Nhận thức của chính bản thân của người phụ nữ bị bạo lực trước những hành vi BLGĐ của chồng:
2, Tâm lý, hành động của người vợ khi chồng tiếp cận đến các dịch vụ.
3, Nhận thức, hành vi (đồng tình, ủng hộ, trợ giúp) của các thành viên khác trong gia đình trong quá trình NGGBL tiếp cận và tham gia sử dụng dịch vụ.
2.4.4 Yếu tố thuộc về chính sách pháp luật
Khi được pháp luật bảo vệ và nhận được chủ trương ủng hộ chấp thuận của nhà nước thì mọi hành động, chương trình, kế hoạch, biện pháp sẽ được triển khai đồng bộ và hiệu quả ở mọi lĩnh vực nói chung và trong công tác phòng chống BLGĐ nói riêng. Do đó yếu tố chính sách luật pháp là nền tảng vững chắc để xây dựng, triển khai các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ từ trung ương đến địa phương.
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Bằng việc ký Công ước CEDAW, Việt Nam thể hiện sự cam kết đầy đủ của mình đối với việc loại bỏ mọi hình thức xâm phạm quyền phụ nữ và phân biệt đối xử với phụ nữ. Hai luật quan trọng nhất trong khung pháp lý phòng chống BLG tại Việt Nam là Luật bình đẳng giới (2006) và Luật phòng chống bạo lực gia đình (2007). Luật Bình đẳng giới nghiêm cấm các hành vi bạo lực vì lý do giới và đề ra các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới nhằm vào một số nguyên nhân mang tính cấu trúc. Luật PCBLGĐ tập trung vào vấn đề BLGĐ do các thành viên trong gia đình gây ra trong khuôn khổ gia đình. Nghị định 110/2009/NĐ-Cp về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ; Thông tư 16/2009/TT-BYT-2009 về Luật phòng chống BLGĐ ( hướng dẫn việc tiếp nhận, chăm sóc y tế và thống kê….); Thông tư 02/2010/TT- BVHTTDL - 2010 về Luật phòng chống BLGĐ (quy định chi tiết thủ tục liên quan đến chuyên môn, dịch vụ cơ sở tư vấn); Thông tư Số 23/2011/TT- BVHTTDL: quy định thu thập, xử lý thông tin về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; Thông tư số 24/2011/TT- BVHTTDL: Quy định về tiêu chuẩn, điều kiện khen thưởng cá nhân, tập thể tham gia phòng, chống bạo lực gia đình; đối tượng, điều kiện, cơ quan hoàn trả thiệt hại về giá trị tài sản cho người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình;
Thông tư của Bộ Tư pháp số 07/2011/TT-BTP: Thông tư này hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý. Thông tư xác định phụ nữ là nạn nhân của bạo lực là nhóm đối tượng cần được các tổ chức trợ giúp pháp lý ưu tiên hỗ trợ và qui định nhiệm vụ của các cán bộ và các tổ chức trợ giúp pháp lý (trong việc xác định nạn nhân, tư vấn pháp lý và đại diện pháp lý); Thông tư liên tịch số 143/2011/TTLT/BTC- BVHTTDL: quy định chế độ quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ các cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình và các địa chỉ tin cậy tại cộng đồng (Bộ VHTTDL, 2013).
Các chương trình nhằm mục đích nâng cao nhận thức và giảm tỉ lệ BLGĐ tại Việt Nam đã được thực hiện trong khoảng thời gian vừa qua như : Kế hoạch hành động Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015; Chương trình hành động quốc gia về phòng chống bạo lực đến năm 2020; Kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025. Các biện pháp can thiệp được triển khai thông qua chương trình này bao gồm các chiến dịch nâng cao nhận thức của cộng đồng, các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách địa phương cũng như soạn thảo các tài liệu giáo dục và truyền thông. Nam giới và trẻ em trai cũng là đối tượng tiếp cận của các sáng kiến này, chẳng hạn như cuộc vận động trên toàn quốc mang tên―Tôi là đàn ông, tôi phản đối bạo lực‖ hay ―Phong trào Công bằng Giới trong trường học‖ tại Đà Nẵng (ICRW, 2012) và các câu lạc bộ nhằm vào những người gây bạo lực hay nam giới nói chung, chẳng hạn câu lạc bộ ―Người chồng và Người cha‖, ―Câu lạc bộ Đàn ông do Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số (CCIPH) thành lập và các khóa đào tạo phòng chống bạo lực dành cho nam giới gây bạo lực [90].
2.4.5 Yếu tố tài chính
Dân gian ta có câu ― Có thực mới vực được đạo‖ quả đúng như vậy trong bất kỳ ngành nghề hay lĩnh vực nào muốn hoạt động hiệu quả thì yếu tố cần và đủ nhất vẫn là yếu tố tài chính. Trong nghề CTXH cũng vậy, vì là một lĩnh vực mới được khai sinh nên rất cần đến sự hậu thuẫn về mặt tài chính để triển khai sâu rộng tất cả các dịch vụ hoạt động hỗ trợ đến các nhóm đối tượng trong xã hội. Với công tác giảm thiểu BLGĐ, nguồn tài chính sẽ giúp:
1) Đảm bảo nguồn kinh phí để xây dựng và triển khai các dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ nói chung và các hoạt động dịch vụ CTXH với nam giới GBL nói riêng.
2) Nguồn kinh phí để mở các khoá đào tạo, lớp học bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ NVCTXH và các cán bộ kiêm nhiệm hoặc có trách nhiệm liên quan đến lĩnh vực PCBLGĐ ở các cấp theo định kỳ.
3) Đảm bảo kinh phí phục vụ đáp ứng cho việc duy trì điều kiện cơ sở vật chất góp phần tạo dựng môi trường vật chất hiệu quả để thực hiện các hoạt động của dịch vụ CTXH với nam giới GBL nhằm giảm thiểu BLGĐ. Trong đó địa điểm tổ chức hoạt động CLB nhóm nam giới cần an toàn, thuận tiện, đảm bảo phù hợp; đảm bảo về âm thanh, ánh sáng, nhiệt độ; giảm thiểu những chi tiết gây nhiễu, mất tập trung chú ý ở nhóm viên (tiếng ồn, sự thiếu ngăn nắp, bừa bãi; quá nhiều chi tiết trong căn phòng v.v…); Có khuôn viên đảm bảo cho việc tổ chức các hoạt động đặc biệt có thể tổ chức hiệu quả phương pháp trải nghiệm, đóng vai các tình huống giả định; Cần có đầy đủ và độ tin cậy của các tài liệu (hồ sơ cá nhân/nhật ký sinh hoạt nhóm, tài liệu phát tay cho nhóm viên…), sách hướng dẫn tổ chức hoạt động CTXH với nam giới GBL; Trang bị các phương tiện, thiết bị phù hợp với hoạt động CTXH với nam giới GBL nhằm giảm thiểu BLGĐ: công cụ trực quan, video clip, phim, máy chiếu/tivi…Để thực hiện được các điều kiện cơ sở vật chất như vậy cần cơ chế về nguồn tài chính được chi đúng quy định; Kết hợp huy động nguồn lực trong cộng đồng: các tổ chức doanh nghiệp, các đơn vị tài trợ.
4) Nguồn tài chính để chi trả cho đội ngũ NVCTXH, các cán bộ kiêm nhiệm và có trách nhiệm liên quan phụ trách mảng PCBLGĐ tại mỗi đơn vị từ cấp thôn khu bản đến cấp xã phường: Mọi hoạt động CTXH đều xuất phát từ cái tâm của người làm xã hội nhưng nếu thiếu kinh phí thì các hoạt động trợ giúp cho đối tượng sẽ không đem lại hiệu quả cao, lâu dài có tính cam kết từ phía đối tượng và trách nhiệm trong công việc của cán bộ CTXH. Do đó đảm bảo chế độ và có một chế độ chính sách phù hợp để khuyến khích, động viên là một trong những điều kiện giúp cho họ có thể yên tâm trong công tác và hoạt động trợ giúp.
2.4.6 Yếu tố cộng đồng
Cộng đồng xã hội xung quanh nam giới GBL bao gồm: công ty (cơ quan) nơi nam giới GBL công tác, hàng xóm, tổ dân khu phố, nhóm bạn bè, chính quyền địa phương…Yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả trong công tác triển khai dịch vụ PCBLGĐ bởi lẽ mỗi cá nhân đều nằm trong một cộng đồng khác nhau và chịu sự chi phối tác động qua lại của cộng đồng đó. Nếu cộng đồng, xã hội coi vấn đề
bạo lực gia đình là chuyện riêng của mỗi gia đình ―Đ n nhà ai nhà nấy rạng‖, sự can thiệp, lên án của cộng đồng, làng xóm chỉ mang tính chất nhất thời, mờ nhạt thì NGGBL sẽ không thấy được sự cần thiết phải thay đổi nhận thức và hành vi của mình. Do đó, bạo lực gia đình vẫn có điều kiện tồn tại và phát triển. Ở nhiều nước, quyền uy của nam giới được coi là nền tảng của sự phát triển tôn giáo, tổ chức, văn hoá truyền thống và trong duy trì nòi giống. Nam giới luôn có nhiều lợi ích hơn phụ nữ và đương nhiên họ không muốn từ bỏ những tồn tại lâu đời này. Do vậy, mặc dù những lợi ích của việc tăng cường sự tham gia của nam giới vào các hoạt động dịch vụ thúc đẩy bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trong gia đình đã được ghi nhận tại nhiều nơi trên thế giới, tuy nhiên nhiều người vẫn phản đối bình đẳng giới [14]. Các hành vi bạo lực thường không được can thiệp đúng lúc và bị trừng trị thích đáng, vì sự thờ ơ của cộng đồng coi nó như là việc riêng của mỗi gia đình. Trong quá trình ứng dụng và tiếp cận các dịch vụ CTXH của NGGBL nếu nhận được sự hỗ trợ, đồng tình ủng hộ hay khuyến khích khen thưởng từ cộng đồng sẽ giúp quá trình can thiệp được đẩy nhanh tiến độ thu được kết quả khả quan và NGGBL được tiếp cận thuận lợi các dịch vụ CTXH và ngược lại.