đó là di tích “đèn Quảng Chiếu”. Tuy nhiên, những ý kiến trên đều chưa tạo được sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu, nên trong lúc chờ đợi các nguồn tư liệu mới, tạm thời thống nhất tên gọi di tích này là “Di tích kiến trúc tâm linh đặc biệt thời Lý”.
Nét riêng nữa và cũng là đóng góp tiếp theo của các phát hiện di tích kiến trúc thời Lý ở địa điểm khai quật Vườn Hồng đối với việc nghiên cứu nền móng kiến trúc thời Lý đó là: Tất cả các di tích thời Lý phát hiện được tại địa điểm khai quật đều nằm trên chính giữa trục trung tâm của các kiến trúc thời Lý tại Khu vực khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. Góp phần khẳng định chắc chắc chắn cho sự tồn tại một trục kiến trúc trung tâm của thời Lý.
3.1.4. Đặc trưng của di tích kiến trúc thời Trần
Trong 175 năm tồn tại, các thành tựu có được từ thời Lý đã được nhà Trần kế thừa, bổ sung đưa lên tầm vóc mới.
Kinh thành Thăng Long giai đoạn này không ngừng được mở rộng, bên cạnh việc củng cố, cải tạo, sửa sang các công trình có từ thời Lý, các cung điện khác cũng được bổ sung xây dựng phục vụ cho việc triều chính. Các tài liệu ghi chép, trong thời Trần có 7 đợt xây dựng được tiến hành trong Hoàng cung, đã có 12 cung, 12 điện trong tổng số 96 công trình được xây dựng.
Năm 1230, nhà Trần đã qui hoạch lại khu trung tâm của Hoàng cung cho phù hợp với thiết chế chính trị, ở 2 bên của điện Thiên An là các cung Thánh Từ, nơi Thượng Hoàng ở, và cung Quan Triều, nơi vua ở, cùng với nhiều các công trình kiến trúc xung quanh. Sau đó còn có nhiều đợt xây dựng, tu bổ, cải tạo nữa được tiến hành, trong đó quy mô nhất vào các năm 1289 và 1371.
- Các di tích thời Trần ở khu vực 18 Hoàng Diệu được nhận diện như sau:
Trên toàn bộ khu vực khai quật 18 Hoàng Diệu, chưa xuất lộ công trình kiến trúc nào hoàn chỉnh của thời Trần.
Tuy nhiên, tại một số vị trí khu vực khai quật, di tích nền móng kiến trúc thời Trần được nhận diện với những đặc điểm chung, gồm 2 giai đoạn.
+ Giai đoạn 1: giai đoạn này có thể là thuộc đầu thời Trần, dấu tích của di tích kiến trúc được nhận diện trên mặt bằng các di tích kiến trúc thời Lý. Ở đó, các vật liệu xây dựng thời Trần được tìm thấy. Chính vì vậy, khả năng giai đoạn này về cơ bản các di tích nhà Trần kế thừa từ thời Lý, có chăng chỉ là việc cải tạo, sửa chữa, thu hẹp hoặc mở rộng kiến trúc thời Lý đó mà thôi.
Có thể bạn quan tâm!
- Mặt Bằng Kiến Trúc Hình Chữ Nhật
- Di tích kiến trúc tại địa điểm Vườn Hồng, 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội - 9
- Giá Trị Lịch Sử - Văn Hóa Của Các Di Tích Kiến Trúc Tại Địa Điểm Vườn Hồng
- Di tích kiến trúc tại địa điểm Vườn Hồng, 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội - 12
- Di tích kiến trúc tại địa điểm Vườn Hồng, 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội - 13
- Di tích kiến trúc tại địa điểm Vườn Hồng, 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội - 14
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Do vậy, mặt bằng kiến trúc, vật liệu và kỹ thuật xây dựng nền móng kiến trúc giai đoạn này về cơ bản giống với thời Lý. Khả năng, giai đoạn này ở khoảng trước 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
+ Giai đoạn 2: các di tích thời Trần giai đoạn này có sự khác biệt hoàn so với thời Lý cũng như thời Trần giai đoạn 1, với những nét như sau:
Mặt bằng kiến trúc: hình chữ nhật, với nhiều loại hình: móng cột, giếng nước, tường bao, sân nền,... nằm chồng đè lên các di tích nền móng kiến trúc thời Lý.
Vật liệu xây dựng: tại các móng cột, vật liệu nhìn thấy phổ biến là các mảnh gạch và ngói vụn, xen vào đó là đất sét.
Kỹ thuật xây dựng: các móng cột giai đoạn này phát hiện được có kích thước nhỏ hơn, trung bình khoảng 0,8m x 0,8m.
- Tại địa điểm khu vực Vườn Hồng đã xuất lộ đầy đủ mặt bằng của 01 di tích nền móng kiến trúc ở hố G3 với nhiều điểm riêng, khác với các di tích thời Trần đã phát hiện được tại khu vực khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. Kiến trúc này có những đặc điểm sau:
+ Mặt bằng: hình chữ nhật, dài theo chiều Bắc Nam, rộng theo chiều Đông Tây.
+ Kết cấu: mỗi vì có 02 móng cột (có thể là 3 móng cột vì trong hàng đầu tiên phía Nam có 03 móng cột).
+ Quy mô: theo hiện trạng, quy mô kiến trúc gồm 9 gian.
+ Kỹ thuật xây dựng: các hố móng xuất lộ đều thuộc phần đáy, ở đó có các mảnh gạch và ngói, có thể được dùng để lót đáy của hố móng.
+ Vật liệu xây dựng: các mảnh gạch, ngói mang những nét đặc trưng của thời Trần.
Căn cứ vào đặc điểm hiện trạng và quy mô, đây có thể nhận định đây là công trình kiến trúc kiểu hành lang?
3.1.5. Đặc trưng của các di tích kiến trúc thời Lê sơ
Năm 1427, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống nhà Minh xâm lược, Lê Lợi lên ngôi, lập ra nhà Lê, đến năm 1528, nhà Mạc chiếm ngôi. Như vậy, thời Lê sơ được xác định kéo dài khoảng 100 năm (1427 - 1528).
Trên tổng thể khu di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu, các cuộc khai quật đã tìm thấy dấu tích một số di tích của thời Lê, tuy nhiên, việc nhận thức các di tích kiến trúc chưa được rò do có mặt bằng di tích nào được làm rò.
Cuộc khai quật tại khu vực xây dựng Nhà Quốc hội đã làm xuất lộ mặt bằng của 4 di tích nền móng kiến trúc và 01 di tích móng thành, với các đặc trưng sau:
- Mặt bằng di tích: Di tích được xây dựng trên nền đất đắp, phủ đè lên các di tích kiến trúc của các thời trước. Mặt bằng kiến trúc đều có hình chữ nhật, theo 2 hướng: dài theo chiều Bắc Nam, rộng theo chiều Đông Tây (như trường hợp kiến trúc ở hố G12-G14) hoặc dài theo chiều Đông Tây, rộng theo chiều Bắc Nam (như trường hợp kiến trúc ở hố G7-G8, chạy dài men theo chiều dài của móng thành).
- Kết cấu: tại kiến trúc phát hiện được ở hố G7 - G8 (12.VH.LS.KT001), G12 - G14 (12.VH.LS.KT002; 12.VH.LS.KT003) cho thấy, trong mỗi vì kiến trúc đều có 04 móng cột. Trường hợp kiến trúc ở hố G12-G14 (12.VH.LS.KT003), quy mô gồm 3 gian 2 chái. Tại hàng cột ngoài cùng phía Nam, có thêm 1 móng cột nữa.
- Vật liệu xây dựng; tại các hố gia cố móng cột, vật liệu bao gồm các mảnh gạch được đầm chặt, có một số vị trí gạch đầm chặt thành bột. Trong lớp vật liệu đầm móng thành, còn nhận diện được vật liệu xây dựng của các thời Trần do được tận dụng lại.
- Kỹ thuật xây dựng: các móng cột đều đã bị thời sau phá hủy rất mạnh, về cơ bản chỉ còn lại các hố móng.
Tại vị trí mặt cắt của móng thành, các vật liệu được đầm thành lớp: cứ một lớp gạch ngói vụn được đầm chặt lại đến 1 lớp đất sét.
Trên tổng thể các di tích phát hiện được, có giá trị và ý nghĩa nhất là di tích móng thành: di tích rộng 3,0m, chạy dài theo chiều Đông Tây, từ hố phạm vi hố G7 đến khu vực Bộ Ngoại giao và còn tiếp tục chạy dài về phía Tây.
Căn cứ trên hệ tọa độ Hoàng thành Thăng Long, di tích này nằm thẳng với cửa Đoan Môn hiện nay. Từ hiện trạng và kết quả nghiên cứu đó, có thể khẳng định, đây là di tích móng của tường Cấm thành Thăng Long thời Lê sơ. Tức là móng tường giới hạn về phía Nam của Cấm thành thăng Long thời Lê sơ. Đây là phát hiện đầu tiên và duy nhất về di tích do vậy vô cùng có ý nghĩa, góp phần vào việc xác định vị trí và quy mô của Cấm thành Thăng Long thời Lê sơ.
3.1.6. Đặc trưng của di tích kiến trúc thời Lê Trung Hưng
Sau khi đánh đuổi nhà Mạc, nhà Lê được tái lập, sử sách gọi là thời Lê Trung Hưng, kéo dài từ khoảng năm 1598 đến 1788.
Thời kỳ này, khu vực khảo cổ học 18 Hoàng Diệu chưa phát hiện được di tích nào, do vậy tư liệu về di tích kiến trúc thời Lê Trung Hưng ở địa điểm khai quật Vườn Hồng là hoàn toàn mới, góp phần vào việc nhận thức về di tích thời Lê Trung hưng trên tổng thể Khu di tích Hoàng thành Thăng Long.
Trên diện tích khai quật, các di tích nền móng kiến trúc thời kỳ này được phát hiện gồm 4 di tích kiến trúc được cấu thành bởi các móng cột và 01 di tích móng thành.
- Di tích móng thành thời kỳ này nằm song song và cách móng Cấm thành thời Lê sơ khoảng 3m về phía Nam. Tuy nhiên kỹ thuật và vật liệu xây dựng móng thành khác hoàn toàn với những điểm như sau:
+ Về kỹ thuật: Móng thành không có các lớp đầm chặt, kỹ và kiên cố như móng thành thời Lê sơ; không hình thành từng lớp riêng biệt và xen kẽ giữa các loại vật liệu.
+ Vật liệu: gồm gạch, ngói và xen lần một số mảnh sành. Hoàn toàn vắng bóng các vật liệu của thời trước đó.
- 4 di tích nền móng kiến trúc phát hiện được ở khu vực hố G12-G14 (12.VH.LTH.KT001; 12.VH.LTH.KT002; 12.VH.LTH.KT003) và ở hố G21
(12.VH.LTH.KT004) với các đặc điểm chung:
+ Mặt bằng: các kiến trúc được xây dựng trên nền đất đắp phủ đè hoàn toàn lên di tích của các thời trước. Mặc dù đều chưa xuất lộ toàn bộ mặt bằng, như có thể nhận thấy: 01 di tích mặt bằng dài theo chiều Bắc Nam, rộng theo chiều Đông Tây với 14 móng cột của 4 vì kiến trúc; 02 di tích song song nhau và đều có mặt bằng dài theo chiều Đông Tây, rộng theo chiều Bắc Nam với 08 móng cột thuộc về 2 bộ vì.
+ Kết cấu: trong bộ vì của các kiến trúc đều có 04 móng cột tạo thành 03 khoảng cách: Khoảng chính giữa là lòng kiến trúc (giữa 2 cột cái), 2 khoảng bên (giữa móng cột cái và móng cột quân).
+ Kỹ thuật xây dựng: kỹ thuật xây dựng kiến trúc được tìm hiểu thông qua kỹ thuật xây dựng móng cột.
Hố móng hiện còn sâu trung bình từ 1,5m đến 1,7m.
Trong hố móng, các loại vật liệu được đầm thành từng lớp, có hố móng có tới 31 lớp đầm theo trật tự: cứ 1 lớp gạch vỡ nhỏ đến 1 lớp đất sét.
Đáy hố móng được dải kín 1 lớp gạch vồ chữ nhật, đặc trưng của thời Lê Trung hưng. Gạch vồ, hình chữ nhật, thon dài, kích thước: dài từ 38cm đến 42cm, dày 12cm đến 15cm, rộng 17cm đến 19cm, màu xám hoặc đỏ.
Việc phát hiện và làm rò các đặc điểm của di tích thời Lê Trung hưng ở địa điểm Vườn Hồng đã giúp cho việc nhận thức chung về các di tích kiến trúc thời kỳ này trên tổng thể khu di tích Hoàng thành Thăng Long.
3.2. Giá trị lịch sử - văn hóa khu vực Vườn Hồng
Từ kết quả khai quật và nhận thức về di tích tại địa điểm khai quật Vườn Hồng, có thể nhận định một số giá trị lịch sử - văn hóa của các di tích trên mấy vấn đề sau:
3.2.1. Việc nhận thức và nghiên cứu các di tích ở địa điểm Vườn Hồng đóng góp vào việc nhận thức chung về di tích kiến trúc tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long qua các thời kỳ lịch sử.
Đó là những đóng góp và phát hiện mới. Đối với thời Đại La, đó là di tích móng thành được xác định thuộc về phía Nam của thành Đại La (thế kỷ VII - IX) với các đặc điểm về vị trí, mặt bằng xuất lộ, vật liệu và kỹ thuật xây dựng.
Đối với thời Lý, đó là hệ thống gồm 4 di tích nằm trên trục trung tâm của các di tích kiến trúc thời Lý, từ đó đóng góp vào việc khẳng định kiến trúc thời Lý trên các mặt: quy hoạch kiến trúc, quy hoạch tổng thể từng di tích, vật liệu và kỹ thuật xây dựng với những nét riêng. Đặc biệt, với việc lần đầu tiên phát hiện và làm rò mặt bằng di tích kiến trúc hình tròn đã đóng góp thêm một kiểu mặt bằng vào việc nhận diện và phân định các kiểu mặt bằng của di tích kiến trúc thời Lý. Đồng thời, từ phát hiện này đã đưa đến nhiều ý kiến nghiên cứu về di tích, dẫu chưa thống nhất về tên gọi, nhưng chức năng tâm linh của di tích đực khẳng định, tạm thời, đó là “Di tích kiến trúc tâm linh đặc biệt đầu thời Lý”.
Sang đến thời Trần, việc phát hiện và xuất lộ đầy đủ mặt bằng di tích ở hố G3 đã đóng góp thêm 1 kiểu mặt bằng và có thể là chức năng khác (hành lang) trong tổng thể các di tích thời Trần tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long.
Thời Lê sơ và Lê Trung hưng, các di tích kiến trúc ở đây đã là chỉ dấu chung cho việc nghiên cứu về kiến trúc trên các vấn đề: mặt bằng, vật liệu và kỹ thuật xây dựng, đặc biệt là giá trị của các phát hiện và nghiên cứu của thời Lê Trung hưng. Các móng thành thời Lê sơ và thời Lê Trung hưng nằm song song và cách nhau khoảng 3,0m đã khẳng định, có sự thay đổi về quy hoạch của Cấm thành Thăng Long giữa hai thời kỳ.
3.2.2. Các dấu tích kiến trúc tại khu vực Vườn Hồng góp phần tìm hiểu lịch sử kiến trúc Kinh thành Thăng Long
Theo thông tin ghi chép của các tài liệu sử, nếu lấy mốc từ khi Lý Thái Tổ dựng đô vào năm 1010 thì Thăng Long đã được hơn 1000 năm lịch sử, còn nếu tính từ thời Đại La thì lịch sử Thăng Long đã kéo dài khoảng hơn 1.300 năm.
Hiển nhiên, theo các phát hiện khảo cổ học thì lịch sử Thăng Long có thể kéo dài đến hàng nghìn năm trước nữa, nhưng với các dấu tích kiến trúc trong khu vực Vườn Hồng, chúng ta hãy xem xét lịch sử kiến trúc Thăng Long - Hà Nội trong khoảng từ thời Đại La cho đến hết thời Lê Trung hưng. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, các kiến trúc dần dần được hoàn thiện về các mặt: bố cục mặt bằng, kỹ thuật xây dựng và điêu khắc trang trí.
Trong khoảng giới hạn như vậy, lịch sử Thăng Long được bắt đầu từ khi thành Đại La được xây dựng, ở vào khoảng thế kỷ 7 kéo dài đến đầu thế kỷ 10. Thời kỳ này, các kiến trúc đã phát hiện được ở nhiều khu vực, các đặc điểm về các di tích kiến trúc đã được nhận diện. Đó là hệ thống các móng cột kiến trúc, nền nhà được lát bằng gạch vuông, bó nền được xây dựng bằng gạch bìa cùng hệ thống các công trình phụ trợ của kiến trúc như cống nước, giếng nước.
Hệ thống móng cột kết nối với nhau tạo thành các mặt bằng kiến trúc kiên cố, điều này mặc nhiên phản ánh kết cấu các kiến trúc ở đây được xây dựng với các hàng cột gỗ được chôn trong các hố móng nằm sâu xuống nền đất, bên trên là bộ khung gỗ liên kết với nhau theo chiều ngang bằng các vì và liên kết dọc với hệ thống xà. Trên mái của các công trình kiến trúc phổ biến được lợp bằng loại ngói âm dương với các phù điêu trang trí ở các góc và đầu hồi mái. Các viên ngói âm có hình lòng máng, ngói dương lợp diềm mái thường được trang trí các mô - típ hoa sen, mặt người hay linh thú với nhiều biến thể phong phú.
Đặc điểm của kiến trúc gỗ với hệ thống khung chịu lực qua các cột gỗ nên kỹ thuật xây dựng móng nền và móng cột được đặt ra hết sức quan trọng, vì đó là yếu tố đảm bảo tính bền vững của các công trình.
Móng nền của các kiến trúc thời Đại La được xây dựng trên nền đất tự nhiên được hình thành bởi sự bồi tụ của “vịnh Hà Nội”, đó là lớp đất với thành phần chính là phù sa ở dạng bột sét màu nâu hồng, có kết cấu yếu, đây cũng là lớp đất bề mặt của tầng sinh thổ.
Dựa trên nền đất đó, con người thời Đại La tiến hành xây dựng các công trình kiến trúc. Nắm bắt được địa mạo của khu vực, nên việc gia cố các móng cột để có thể chịu được sức nặng hệ thống kết cấu kiến trúc bên trên hết sức được chú trọng. Các hố móng cột có kích thước trung bình 1,20m x 1,20m, được đào sâu xuống nền đất từ 0,50m đến 0,85m. Đáy của các hố móng được gia cố bằng các mảnh gạch ngói, sau đó
các thanh gỗ kê cột được đặt bên trên, các cột gỗ được chôn sâu trong các hố móng, xung quanh dùng ngói và đất sét chèn chặt.
Mặt bằng các kiến trúc ở thời kỳ này trong khu vực khai quật do bị các di tích thời sau nằm phủ đè bên trên nên chưa xuất lộ mặt bằng đầy đủ của một công trình kiến trúc nào hoặc cũng có thể do bị giới hạn không gian và diện tích khai quật. Tại khu vực xây dựng Nhà Quốc hội (khu E), đã tìm được dấu tích nền móng của 18 công trình kiến trúc thời Đại La nằm dưới lớp văn hóa thời Lý. Các di tích kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật, 2 hoặc 3 hàng cột với kết cấu nhiều gian. Đặc biệt, xác định được
loại kiến trúc có mặt bằng hình chữ đinh –“丁” được đánh giá là công trình kiến trúc
quan trọng trong khu khai quật. Các khoảng cách gian của kiến trúc trung bình là 4,1m. Do đó mặt bằng kiến trúc thời kỳ này cũng có các khoảng cách gian tương tự, và cùng kiểu mặt bằng với các di tích hành lang nên có thể đây cũng là một kiểu di tích hành lang của thời Đại La.
Việc phát hiện và làm rò được kỹ thuật và vật liệu xây dựng của di tích móng thành đã góp phần quan trọng trong việc khẳng định vị trí và quy mô của thành Đại La thế kỷ VII - IX, cũng là khẳng định lời của Đức vua Lý Thái Tổ được viết trong Chiếu dời đô, đó là dời đô về “đô cũ của Cao Vương”, chắc hẳn đô cũ đó cũng rất quy mô, hoành tráng với nhiều công trình kiến trúc được xây dựng.
Mặc dù chỉ xuất lộ phần nền móng, bên trên các kiến trúc đã bị phá hủy hoàn toàn nhưng qua hệ thống di vật cho thấy các kiến trúc được xây dựng với quy mô lớn, các vật liệu và trang trí kiến trúc đa dạng và chịu ảnh hưởng của văn hóa thời Đường. Đó là sưu tập các loại ngói âm dương lợp mái kiến trúc, các loại gạch vuông được dùng để lát nền, gạch hình chữ nhật xây dựng bó nền hoặc các công trình phụ trợ cho kiến trúc. Gạch vuông lát nền gồm loại không có hoa văn và có hoa văn. Loại có hoa văn với các đồ án trang trí như hoa sen, hay văn hình học, trong đó có viên gạch được trang trí cách điệu hình ảnh cá sấu đang bơi trong sóng nước.
Với các đặc điểm về di tích kiến trúc trên, thành Đại La xứng đáng là trung tâm chính tri quyền lực, kinh tế của An Nam đô hộ phủ thời Tùy - Đường.
Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh bắt đầu chọn Hoa Lư (Ninh Bình) làm căn cứ quân sự. Sau hơn 20 năm chiến đấu liên tục và kết thúc bằng chiến thắng 12 sứ quân, năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi xưng Đế, chính thức đóng đô ở đây, lập ra nhà Đinh (968 -
980). Đến nhà Tiền Lê (981 - 1009) tiếp nối cũng đóng đô ở Hoa Lư. Với các thành tựu chung đạt được về chính trị, kinh tế, văn hóa trong giai đoạn này nên các nhà nghiên cứu gọi chung là thời Đinh – Tiền Lê.
Như thế, trong khoảng thời gian từ năm 968 đến 1009 khu vực thành Đại La không còn là trung tâm chính trị, nhưng do vị thế nằm ở trung tâm trọng yếu của châu thổ Bắc Bộ nên vùng đất này vẫn là trung tâm quan trọng - Kinh phủ, của đất nước trong suốt gần 60 năm tồn tại của nhà Đinh - Tiền Lê.
Tại kinh đô Hoa Lư, các cuộc khai quật tại chùa Nhất Trụ và đền vua Đinh đã tìm thấy dấu tích các móng cột kiến trúc được xây dựng bằng các thanh gỗ nằm ngang và dấu tích của hàng gạch xếp.
Cuộc khai quật tại địa điểm 18 - Hoàng Diệu đã lần đầu tiên tìm được các bằng chứng về di vật và di tích minh chứng cho sự tồn tại của các công trình kiến trúc được nhà Đinh - Tiền Lê xây dựng ở Kinh phủ.
Trên cùng độ sâu và mặt bằng với lớp văn hóa Đại La, các phát hiện về dấu tích nền móng kiến trúc tại các khu A, B, C, và D bước đầu đã ghi nhận sự có mặt của các công trình kiến trúc thời Đinh - Tiền Lê. Tuy nhiên phải đến cuộc khai quật tại khu E, các kiến trúc thời kỳ này mới được nghiên cứu cụ thể với 3 dấu tích nền móng có mặt bằng hình vuông, hình chữ nhật, có quy mô nhỏ.
Tại khu vực khai quật, dù mới phát hiện ghi nhận có 2 di tích móng cột thời kỳ này, nhưng mang đầy đủ các đặc trưng tiêu biểu của di tích thời Đại La như những phát hiện trước đó ở các địa điểm khác.
Kết cấu của các công trình kiến trúc gỗ thời kỳ này chắc hẳn có những điểm tương đồng với các kiến trúc thời Đại La, trong đó chú trọng đặc biệt vào việc xây dựng gia cố móng cột nhằm chịu được tải trọng của toàn bộ kết cấu và vật liệu lợp mái. Các móng cột có kích thước trung bình 1,2m x 1,2m, đều là cột âm gồm 2 loại được xây dựng với kỹ thuật khác nhau.
Loại móng cột được xây dựng bằng việc dùng các thanh gỗ, 3 hoặc 4 thanh, có kích thước từ 0,8m đến 1,0m xếp dọc hoặc ngang tạo thành bè móng ở sát đáy của hố móng, sau đó có một thanh gỗ khác được đặt bên trên, cột gỗ sẽ đặt trên thanh gỗ này. Dưới các thanh gỗ có ngói và đất sét dải làm nền. Kỹ thuật dùng các thanh gỗ để kê chân cột như trên có tính chất tương tự như các móng cột thời Đại La. Tuy nhiên điểm khác biệt ở đây là sự kiên cố của các móng cột bằng việc gia cường thêm vật liệu, nếu