Di tích kiến trúc tại địa điểm Vườn Hồng, 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội - 12

như cột âm trong các công trình kiến trúc thời Đại La chỉ được đặt trên 1 hoặc 2 thanh gỗ thì đến thời Đinh - Tiền Lê, việc gia cố chịu lực các cột của kiến trúc được chú trọng hơn với sự tăng cường các thanh gỗ phía dưới và bổ sung thêm thanh gỗ đặt bên trên, do đó móng cột kiên cố hơn và chịu lực tốt hơn.

Điểm đổi mới khác biệt so với các kiến trúc thời Đại La là sự xuất hiện của loại móng cột dùng các tảng đá kê chân cột đặt ở dưới hố móng, dưới các chân tảng dùng ngói, đất sét hoặc sỏi để gia cố. Chân tảng đá không được chế tác cẩn thận, hình dạng không xác định.

Mặt bằng kiến trúc, ở thời Đinh - Tiền Lê xuất hiện loại kiến trúc có hai hàng móng cột, 4 góc của kiến trúc có các móng cột nằm chéo khoảng 450 so với phương vị của mặt bằng. Kiểu mặt bằng kiến trúc như vậy chưa được tìm thấy ở thời Đại La. Mặt bằng các kiến trúc gồm hai gian chính và 2 gian chái, khoảng cách bước gian trung bình là 5,0m, gian chái có kích thước rộng trung bình là 2,0m.

Toàn bộ phần bên trên của các kiến trúc đều đã bị phá hủy, tuy nhiên, các đặc điểm về vật liệu xây dựng và trang trí trên bộ mái kiến trúc tìm được đã cho thấy, các kiến trúc thời kỳ này được xây dựng rất công phu, mang những nét đặc trưng nổi bật về nghệ thuật trang trí. Nổi bật trong số các di vật là viên gạch có in nổi chữ Hán “Đại Việt quốc quân thành chuyên” trong khuôn hình chữ nhật, có nghĩa là gạch xây quân thành nước Đại Việt. Các đầu ngói ống lợp diềm mái ở đầu được trang trí hoa sen, và ngói lòng máng hình chữ nhật cùng các loại ngói úp nóc trang trí phù điêu chim uyên ương hay quầng sáng được làm từ đất sét đỏ, giống như các phát hiện tại Cố đô Hoa Lư. Như vậy, trên bộ mái các kiến trúc đều được lợp bằng loại ngói âm dương, có gắn các phù điêu trang trí tinh mỹ.

Các phát hiện và nghiên cứu tại 18 Hoàng Diệu đã góp phần khẳng định các giá trị về nghệ thuật và kiến trúc của thời Đinh - Tiền Lê mang những nét đặc trưng riêng của dân tộc, có sự giao thoa với các nền văn hóa trong khu vực. Các sáng tạo giá trị đó là tiền đề, là bước đệm cho sự phát triển và hưng thịnh trong giai đoạn thế kỷ 11 - 14, trong đó thời Lý là đỉnh cao, tạo nên các thành tựu rực rỡ của Văn minh Đại Việt.

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra thời kỳ nhà Lý với các thành tựu đạt được trên tất cả các mặt. Năm sau - 1010, Lý Thái Tổ đã có quyết định sáng suốt dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La “Đô cũ của Cao Vương” và đổi tên thành Thăng Long. Ngay sau đó, nhà Lý đã cho quy hoạch xây dựng lại kinh đô Thăng Long. Cơ

bản, đến năm 1029 - 1030, việc xây dựng Thăng Long đã hoàn thành với 3 vòng thành khép kín, bên trong là hệ thống các cung điện, lầu gác nguy nga mang tầm vóc mới của thành phố rồng bay.

Theo các tài liệu sử cho biết, trong 216 năm tồn tại của nhà Lý, các công trình kiến trúc được xây dựng ở kinh đô Thăng Long với mật độ dày và có quy mô lớn mang những nét đặc trưng riêng.

Kết quả cuộc khai quật dưới lòng đất tại địa điểm 18 - Hoàng Diệu bước đầu đã xác định được 53 dấu tích nền móng kiến trúc cung điện lầu gác, 7 móng tường bao, 6 giếng nước, 13 đường cống tiêu thoát nước.

Khu vực khai quật Vườn Hồng đã đóng góp 04 di tích thời Lý vào tổng thể các di tích kiến trúc thời Lý tại Khu di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. Những di tích ở đây mang đầy đủ các nét đặc trưng của kiến trúc thời Lý, thậm chí có phần kiến cố hơn, về kỹ thuật, tinh mỹ và cầu kỳ hơn về quy mô mặt bằng và kết cấu kiến trúc. Mặt khác, giá trị hơn nữa khi đó lại đều là những di tích quan trọng, nằm chính giữa nên có những đóng góp mới về kiểu mặt bằng, góp phần khẳng định sự tồn tại một trục trung tâm của hệ thống các kiến trúc thời Lý tại 18 Hoàng Diệu, nằm về phía Tây của Hoàng thành Thăng Long hiện nay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Các thành tựu xây dựng kiến trúc đã đạt đến đỉnh cao, dấu tích các công trình kiến trúc được nhận diện qua hệ thống móng nền, bó nền, móng cột, chân tảng, sân nền và phức hợp các công trình phụ trợ của kiến trúc như tường bao, cống nước, giếng nước tạo thành các quần thể kiến trúc phân bố đăng đối, hài hòa, thống nhất thể hiện công lao và sức sáng tạo to lớn của quân dân Đại Việt trong buổi đầu nhà Lý.

Thành tố dễ nhận thấy sự vươn lên vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, tạo nền tảng cho các giá trị mới là việc tôn đắp nền cao hơn và phủ đè lên toàn bộ các di tích thời kỳ Đại La trung bình từ 0,6m đến 1,00m, trải rộng trên toàn bộ phạm vi của kinh thành. Điều này các có ý nghĩa hơn khi biết rằng, đất đắp móng nền đó có nguồn gốc tầng Hải Hưng được khai thác và vận chuyển từ nơi khác đến. Đó là lớp đất sét màu nâu, thuần, loang lổ các ổ laterit màu nâu sắt có thể bắt gặp ở bất cứ vị trí nào trong địa điểm 18 - Hoàng Diệu.

Di tích kiến trúc tại địa điểm Vườn Hồng, 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội - 12

Thành tựu quan trọng trong kỹ thuật xây dựng kiến trúc thời Lý là hệ thống móng cột kê chân tảng đá đỡ chân cột của bộ khung nhà bằng gỗ cùng với bộ mái với các thành

phần trang trí có kích thước và trọng lượng lớn. Phần lớn các móng cột đều thuộc loại móng cột cột dương bên cạnh số lượng hạn chế kiến trúc có các móng cột cột âm.

Trên phương diện hình loại, móng cột hết sức đa dạng với các loại: móng cột vuông có kích thước trung bình của cạnh dao động từ 1,3m đến 1,5m, hố móng được đào sâu từ 1,5m đến 3,0m thường gặp bên trong nền móng các kiến trúc; móng cột vuông có kích thước nhỏ hơn (1,1m x 1,1m) thường được xây dựng trong các kiến trúc có 6 móng cột, trên đó đặt chân tảng đá không được chạm khắc; móng cột hình chữ nhật, chiều dài gấp đôi chiều rộng (1,1m x 2,2m), trên đó đặt vừa đủ 2 chân tảng đá kê cột, gọi là móng cột kép, loại móng cột này luôn đi liền với các móng cột vuông có kích thước nhỏ trong các kiến trúc 6 móng cột. Độc đáo hơn và chỉ xuất hiện trong thời Lý là loại móng cột có hình tròn, đường kính trung bình 1,1m được bố trí trong các kiến trúc “lục giác”, ở đó có 6 móng cột tròn phân bố bao xung quanh móng cột vuông ở giữa tạo thành mặt bằng nền móng công trình hình bông hoa 6 cánh. Các móng cột được gia cố đầm chặt bằng các loại vật liệu rất đa dạng, ngoài đất sét là vật liệu được nhận rò ở bất kỳ móng cột nào, còn có mảnh ngói, sành và bao nung nhưng phổ biến là sỏi cuội sông.

Ở thời Lý, truyền thống cột âm vẫn tiếp tục, trong đó dùng các chân tảng đá đặt ở gần đáy hố móng để kê chân cột, nhưng các người thợ xây dựng thời Lý đã khéo léo kết hợp giữa cột âm và cột dương làm tăng khả năng chịu lực và độ bền của công trình. Các cột âm thời kỳ này không còn tham gia vào hệ chịu lực chính mà được phân bố bao quanh bên ngoài, bên trong công trình là hệ thống các cột dương trên đó đặt các chân tảng chạm khắc hoa văn hình bông sen ở bề mặt. Đó là điểm khác biệt trong việc sử dụng cột âm trong kiến trúc so với các thời kỳ trước.

Mặt bằng các công trình thường có hình chữ nhật, có nhiều gian, phổ biến là kiến trúc có các gian lẻ: 7 gian, 9 gian, 11 gian, 13 gian. Loại mặt bằng kiến trúc có các gian chẵn cũng đã được tìm thấy tại khu E với 6 gian, 8 gian hoặc 10 gian. Bên cạnh đó là các kiến trúc quy mô nhỏ với 6 móng cột tạo thành mặt bằng gồm 2 gian chính và 2 chái được tạo bởi 2 chân tảng đá kê cột trên móng cột kép. Độc đáo hơn cả và khiến các nhà nghiên cứu đưa ra các lý giải khác nhau về công năng là kiến trúc có mặt bằng “lục giác” với các móng cột được phân bố trong phạm vi khoảng đường kính rộng 3,5m.

Mặt bằng kiến trúc “hình tròn” tại địa điểm Vườn Hồng đã đóng góp nguồn tư liệu mới để nhận thức về sự đa dạng về kiểu thức và kỹ thuật xây dựng các công trình

kiến trúc thời Lý, có thể góp phần giải mã những ghi chép của sử liệu và bia ký về một nghi lễ trọng đại, quan trọng bậc nhất trong triều đình nhà Lý, được tiến hành định kỳ hàng năm vào mỗi dịp sinh nhật nhà vua hoặc các dịp quan trọng của đất nước, hội “đèn Quảng chiếu” như trong bia tháp Sùng Thiện Diên Linh đã ghi chép.

Số đo khoảng cách bước gian của các kiến trúc phổ biến dao động từ 4,8m đến 6,0m, cá biệt có kiến trúc bước gian rộng tới 6,7m đến 7,0m đã gây sửng sốt và dẫn đến nghi ngờ về tính hữu dụng của một số nhà nghiên cứu. Một số ý kiến tiêu cực đã không thừa nhận sự tồn tại của công trình kiến trúc có bước gian lớn như vậy.

Trong mỗi vì của kiến trúc hố G1 và G2 của địa điểm Vườn Hồng đều có 6 móng cột nổi, đây là điều duy nhất có trong tổng thể các di tích kiến trúc thời Lý tại 18 Hoàng Diệu.

Bộ khung của các kiến trúc đều được làm bằng gỗ, do vậy trải qua các biến thiên của lịch sử và tự nhiên nên đều đã bị phá hủy. Nhưng các thành phần lát nền và lợp mái của các công trình kiến trúc đều đã được tìm thấy với số lượng lớn, gồm các loại hình ngói âm dương, ngói mũi sen, các thành phần trang trí kiến trúc gắn trên bộ mái và trên các đầu của ngói ống lợp diềm mái. Trên mái còn được gắn các phù điêu trang trí rồng, phượng, chim uyên ương ở một số bộ phận như bờ nóc, bờ dải.

Bên dưới của kiến trúc các vật liệu xây dựng cũng hết sức đa dạng với nhiều hình loại được sử dụng linh hoạt trong các vị trí của kiến trúc. Gạch vuông được sử dụng để lát nền, có loại được trang trí hoa văn và loại không có hoa văn. Hoa văn thường thấy trên các viên gạch vuông là mô - tip hoa sen hoặc hoa cúc dây tinh tế, uốn lượn mềm mại. Loại gạch hình chữ nhật được sử dụng để xây dựng bó nền bao nung quanh nền móng công trình, có nhiều viên trong đó có chữ Hán in chìm hoặc được dùng trong việc xây dựng các công trình phụ trợ của kiến trúc. Ngoài ra còn có loại gạch mặt cắt hình thang cân hoặc hình bình hành được sử dụng phổ biến trong việc xây dựng các cống nước nổi trên mặt sân nền.

Như vậy, những bằng chứng của khảo cổ học trên đây đã minh chứng cho quá trình xây dựng, kiến thiết Thăng Long. Là minh chứng rò nét cho sự phát triển đỉnh cao trong nghệ thuật xây dựng và trang trí kiến trúc, cho sự phát triển rực rỡ của văn minh Đại Việt trong giai đoạn thế kỷ 11 - 13.

Năm 1225, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, chấm dứt 216 năm vẻ vang của vương triều Lý, mở ra một triều đại mới trong lịch sử phong kiến Việt Nam,

triều đại nhà Trần. Lên nắm quyền cai trị đất nước, nhà Trần vẫn duy trì, tiếp tục các công việc của nhà Lý trước đó. Tuy nhiên, trong lịch sử 175 năm tồn tại, phát huy tinh thần chiến thắng trong các cuộc chiến chống ngoại xâm, các giá trị có được ở triều đại trước được đưa lên một tầm vóc mới. Diện mạo Thăng Long được quy hoạch, thay đổi, các công trình kiến trúc được cải tạo, sửa chữa hoặc xây mới cho phù hợp. Trong đó nổi bật là hai đợt xây dựng với quy mô lớn được tiến hành trong các năm 1289 và 1371.

Dấu tích khảo cổ học tại 18 - Hoàng Diệu cho thấy, ở nền móng các công trình kiến trúc được xây dựng từ thời Lý, các lớp cải tạo, sửa chữa, mở rộng của thời Trần được nhận diện rò. Đó là việc mở rộng phần nền phía Bắc và phía Nam của kiến trúc ở hố B16, theo đó các công trình phụ trợ của kiến trúc cũng được thay đổi cho phù hợp. Sự xuất hiện lớp nền được lát gạch bằng gạch bìa nằm phủ đè lên đường cống nước của thời Lý, bên cạnh nền gạch xây dựng một cống nước mới dịch về phía Tây ở hố B5 là minh chứng rò ràng cho các hoạt động cải tạo diễn ra trong giai đoạn đầu của triều Trần. Hoặc như tại kiến trúc “bát giác’ thời Lý tại khu C, cuộc khai quật năm 2014 đã làm rò được lớp nền kiến trúc thời Trần nằm đề trực tiếp lên nền kiến trúc thời Lý trước đó, nhưng các móng cột của công trình thời Lý vẫn giữa nguyên, không có sự thay đổi.

Đến các giai đoạn tiếp theo, các thay đổi lớn trong quy hoạch đã làm xuất hiện các di tích kiến trúc mới nằm đan xen, chồng đè lên các di tích nền móng kiến trúc thời Lý. Trên cơ sở đó, khảo cổ học đã phát hiện và xác định được 7 di tích nền móng cung điện được xây dựng khoảng cuối thế kỷ 13 cùng hệ thống các công trình phụ trợ của kiến trúc như hồ, giếng nước, hệ thống tường bao xây dựng bằng gạch, chân tường được trang trí bằng các ô hoa chanh.

Để xây dựng được các công trình kiến trúc nhà Trần đã huy động nguồn nhân - vật lực lớn. Móng nền của các di tích được đắp bằng đất sét màu nâu vàng, loang lổ các ổ sét màu vàng, vàng trắng thuộc tầng Vĩnh Phúc được khai thác, vận chuyển về Thăng Long phục vụ cho việc vượt nền xây dựng các công trình kiến trúc.

Các kiến trúc thời Trần đã bị thời sau phá hủy mạnh, dấu tích còn nhận diện được là các móng cột cho thấy vẫn tiếp thu từ nhà Lý về kỹ thuật và vật liệu, đó là việc đầm chặt sỏi, ngói và đất sét thành các lớp trong hố móng cột. Các loại vật liệu như sành và bao nung dùng trong xây dựng các móng cột của thời Lý đến thời Trần chưa tìm được hoặc có thể các vật liệu này không còn được sử dụng.

Minh chứng rò nét cho các thay đổi mặt bằng các kiến trúc trong quy hoạch là hệ thống các tường bao được xây dựng bao quanh đơn nguyên một kiến trúc hay một quần thể kiến trúc. Các dấu tích tường bao được xây dựng nằm đè lên các móng cột của kiến trúc thời Lý và mang những đặc điểm riêng của thời Trần. Nếu như ở tường bao của thời Lý, móng tường được gia cố kiên cố bằng sỏi, ngói, đất sét đầm chặt, thân tường được xây bằng gạch bìa, thì sang đến thời Trần, móng tường không còn kiên cố nữa, thân tường rộng trung bình từ 0,95m đến 1,10m được xây dựng bằng gạch bìa, chân tường được trang trí rất mỹ thuật bằng các ô ngói và gạch bìa cách điệu hình hoa chanh. Và xuất hiện loại tường bao mang nét mới, hai bên được xây dựng bằng gạch bìa, thân tường dùng các loại vật liệu nhồi vào. Trên tổng thể, các móng tường bao thuộc giai đoạn 1 của thời Trần có sự kết nối với dấu tích ở hố D2, ở đó có thể xác định được đầy đủ dấu tích của một công trình kiến trúc với các thành phần như bó nền, móng cột, và hệ thống tường bao bao quanh mặt phía Bắc. Bước gian của kiến trúc rộng trung bình 4,8m. Và mặt bằng kiến trúc này nằm chồng lên trên một kiến trúc khác của thời Lý.

Sự thay đổi về mặt bằng quy hoạch các kiến trúc dẫn đến việc các công trình phụ trợ cũng thay đổi theo cho phù hợp.

Việc phát hiện và làm rò được mặt bằng kiến trúc thời Trần ở địa điểm Vườn Hồng là đóng góp mới, rò nét vào nhận thức chung diễn trình kiến trúc thời Trần trên tổng thể lịch sử kiến trúc của Kinh đô Thăng Long.

Bộ khung gỗ của các kiến trúc đã bị phá hủy hoàn toàn, tuy nhiên vật liệu xây dựng bộ mái và sân nền đã tìm được với số lượng nhiều. Nghệ thuật trang trí kiến trúc thời Trần một mặt kế thừa từ thời Lý, mặt khác đã phát triển và sáng tạo ra những nét mới đặc trưng của thời đại. Đó là sự xuất hiện của loại gạch trang trí hoa chanh, các loại ngói mũ sen, ngói mũi lá, các phù điêu trang trí có đường nét phóng khoáng, khỏe khoắn mang đậm dấu ấn riêng của thời Trần.

Vật liệu bên dưới của kiến trúc cũng có những đặc điểm khác dễ phân biệt với thời Lý. Gạch vuông lát nền nhìn chung được làm từ đất sét có độ tinh lọc không cao, có lẫn nhiều hạt sạn nhỏ, kích thước gạch nhỏ hơn, trung bình 0,35m x 0,35m x 0,04m dùng để lát nền, xây dựng giếng nước, cống nước. Gạch bìa có đặc điểm bề mặt thường có các đường cong xuất phát từ một điểm do kỹ thuật chế tác để lại, kích thước trung bình 0,35m x 0,17m x 0,05m (dài x rộng x dày) được dùng để xây dựng các công trình phụ trợ của kiến trúc.

Sau 20 năm Minh thuộc, năm 1427, đất nước và nhân dân Đại Việt được an hưởng, sống trong hòa bình. Nhà Lê (1427 - 1788), gồm Lê sơ và Lê Trung hưng đã có những điều kiện nhất định tái thiết và xây dựng đất nước mang tầm vóc và đặc điểm nhận thức của thời đại.

Hệ thống các di tích trong giai đoạn này tại địa điểm Vườn Hồng đã cho thấy, dù ở thời điểm nào thì kinh đô Thăng Long luôn được chú trọng xây dựng, củng cố, mở rộng để xứng đáng là nơi “hội tụ của bốn phương”, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và giáo dục của nhà nước Đại Việt.

Không chỉ vậy, nhìn từ khía cạnh di tích, rò ràng, sau 20 năm bị giặc phương Bắc đô hộ và tàn phá, ý thức hệ đã có sự thay đổi lớn, nhận thấy rò nhất là về các loại vật liệu xây dựng kiến trúc.

Ở móng cột, hoàn toàn vắng bóng vật liệu phổ biến thời Lý - Trần và rất bền vững, đó là vật liệu sỏi cuội, mà thay vào đó là các loại vật liệu kém bền vững: các mảnh gạch và ngói.

Trên bộ mái, vật liệu lợp và trang trí mái cũng thay đổi. Những hình tượng thân thuộc, hiền hòa đã không còn thấy, đó là chim uyên ương, hình tượng rồng, phượng cũng thay đổi, không còn được khuôn vào những lá đề mang ảnh hưởng của Phật giáo nữa.

Đặc biệt, sự khác biệt và thay đổi nữa, đó là sự đa dạng và linh hoạt trong việc sử dụng vật liệu vào xây dựng móng cột kiến trúc. Ở thời Lý, thời Trần, thống kê có tới khoảng 7 loại vật liệu tham gia vào xây dựng nền móng các công trình, tạo nên sự kiên cố, vững trãi: gạch, ngói, sỏi, đất sét, đá, sành, bao nung thì sang đến thời Lê sơ và Lê Trung hưng, chỉ thấy được gạch và ngói, trong đó chủ đạo là gạch.

Như vậy, các bằng chứng của khảo cổ học từ thời Đại La đến thời Lê Trung hưng đã phán ánh sinh động, chung thực, khách quan các giá trị về mặt kiến trúc của các thời kỳ. Các di tích kiến trúc qua mỗi thời kỳ lại có những nét đổi mới riêng, nhưng vẫn kế thừa các thành tựu đạt được của các thời kỳ trước. Cũng có một số thành tựu đạt được ở thời kỳ trước bị suy thoái, biến mất khi bước sang thời kỳ mới. Đặc điểm nổi bật của kiến trúc trong mỗi thời kỳ là chỉ dấu cho việc nghiên cứu các di tích kiến trúc thuộc cùng thời kỳ. Qua đó, phác thảo được phần nào diễn trình lịch sử của kiến trúc trong kinh thành Thăng Long.

KẾT LUẬN

1. Phạm vi khu vực địa điểm Vườn Hồng đã xác định được số lượng nhiều các loại hình mặt di tích kiến trúc từ thời Đại La (thế kỷ VII - IX) cho đến thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVII - XVIII), các di tích của các thời kỳ sau chồng đè, hoặc cắt phá lên các di tích của thời kỳ trước. Nhìn chung trong địa điểm khai quật Vườn Hồng các di tích ở đây đều chưa xuất lộ đầy đủ mặt bằng hoặc bị phá hủy một phần.

Thời Đại La, các di tích kiến trúc ở đây xuất lộ mặt bằng tính chất cục bộ, phạm vi nhỏ (kiến trúc 2 hàng cột), bên cạnh đó thì tại khu vực khai quật địa điểm Vườn Hồng lần đầu tiên đã tìm thấy di tích móng tường thành được đóng bằng cọc gỗ với mật độ di tích dày. Tuy nhiên, do chưa thể phân chia thành các giai đoạn hoặc liên kết được các di tích trong phạm vi khu vực khai quật, cũng như chưa thể so sánh với các di tích kiến trúc có cùng niên đại trong tổng thể khu di tích Hoàng thành Thăng Long.

Bước sang thời Lý với mặt xuất lộ của các di tích kiến trúc được xác định có phần đa dạng phong phú với về loại hình cũng như mặt bằng kiến trúc (mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật, mặt bằng kiến trúc hình tròn), bên cạnh đó trong khu vực khai quật địa điểm Vườn Hồng đã kết nối và có mối quan hệ chặt chẽ với các di tích thời Lý tại 18 Hoàng Diệu, hình thành lên một trục trung tâm kéo dài từ dấu tích kiến trúc móng thành thời Lý ở phía Nam → Kiến trúc tâm linh → Kiến trúc Bát giác và hệ thống các di tích khác tại 18 Hoàng Diệu. Về vật liệu xây dựng móng cột kiến trúc: Đất sét và sỏi được đầm chặt theo từng lớp.

Đến thời Trần, dấu tích gần như đã bị thời kỳ sau phá hủy chỉ còn lại dấu tích nhận diện trong phạm vi hố G3 với dấu tích mặt bằng dấu tích kiến trúc được nhận diện hai hàng cột, với khoảng cách cách phân gian 7 gian 2 chái. Vật liệu xây dựng móng cột chủ yếu là gạch đỏ, dấu tích nhận diện còn lại là các lớp lót đáy móng cột.

Sang giai đoạn thời Lê sơ, các di tích thuộc nhiều loại hình di tích khác nhau từ di tích móng, rãnh thoát nước, giếng nước đến di tích ao hồ/dòng chảy, di tích thảm thực vật,di tích hố đất đen...

Thời kỳ này, Hoàng cung Thăng Long có sự thay đổi lớn trong quy hoạch xây dựng với việc nền móng kiến trúc được tôn đắp cao trên các nền móng kiến trúc thời Lý Trần.

Như vậy, chỉ trong một diện tích không quá lớn so với tổng thể rộng lớn của Kinh thành Thăng Long, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích nhiều loại hình di

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022