Đtpt Đội Ngũ Giảng Viên Thông Qua Các Chương Trình Htđtqt - Nhìn Từ Thực Tiễn Triển Khai Các Nội Dung Của Công Tác Đtpt Đội Ngũ Giảng Viên


được xây dựng và ra đời trong bối cảnh đó, dựa vào thiện chí hợp tác của cả hai bên đối tác và học phí đóng góp của học viên. Khác với các chương trình trước

đó, chương trình này không có một sự tài trợ nào từ phía bên ngoài. Bắt đầu một thời kỳ mà người dân Việt Nam sẽ tự bỏ tiền ra để "mua" giáo dục nước ngoài, không chỉ trông chờ vào nguồn tài trợ nữa (Bảng 2.4)

Cũng cần nhận thấy rằng, đến giai đoạn này các chương trình tài trợ đm chuyển dần sang hình thức hoạt động tự trang trải kinh phí toàn phần hoặc bán phần. Một xu hướng chung đm diễn là tỷ trọng tài trợ trên tổng chi phí ngày một giảm dần đi, mức học phí do học viên đóng góp tăng dần lên tiến tới mức các chương trình có thể hoàn toàn tự trang trải chi phí.

Cùng với xu thế tăng lên về áp lực tài chính, quá trình hoạt động và triển khai của các chương trình HTĐTQT cũng có những biến chuyển thích hợp để phù hợp với quy luật phát triển chung của nền kinh tế - xm hội hiện nay. Trong các chương trình HTĐTQT ngoài các chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, đm bắt đầu xuất hiện nhiều chương trình đào tạo cử nhân kinh tế: Chương trình IBD@NEU (hợp tác với ĐH Tổng hợp Sunderland) của trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội; các chương trình đào tạo bậc đại học của óc – như RMIT, La Trobe, chương trình Boxhill; chương trình hợp tác với Mỹ (trường Joy State)... Khái niệm về "Du học tại chỗ" đm hình thành và dần có chỗ đứng trong các phụ huynh học sinh, như là một sự lựa chọn mới cho con em mình sau cấp học trung học phổ thông. (Phụ lục 4, 5).

2.2.2.2. ĐTPT đội ngũ giảng viên thông qua các chương trình HTĐTQT - Nhìn từ thực tiễn triển khai các nội dung của công tác ĐTPT đội ngũ giảng viên

Các chương trình HTĐTQT đm mang lại cho trường đại học những lợi ích nhất định. Các chương trình này không những làm cho các chương trình đào tạo của các trường đại học trở nên phong phú và đa dạng hơn, mà quan trọng hơn là chúng tạo ra môi trường cho các hoạt động ĐTPT đội ngũ giảng viên cũng trở nên phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn.

Các hoạt động ĐT PT đội ngũ giảng viên qua các chương trình HTĐTQT có thể xem xét qua 3 khía cạnh cơ bản nhất của công tác ĐTPT như sau:

98


- Về nội dung ĐTPT, bao gồm nội dung chuyên môn theo chuyên ngành giảng dạy của giảng viên, các kỹ năng, phương pháp giảng dạy; tư tưởng tình cảm, nhận thức của giảng viên và trình độ ngoại ngữ;

- Về các hình thức và các phương pháp đào tạo bồi dưỡng giảng viên: Các chương trình HTĐTQT đm tạo điều kiện thực hiện nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, cho phép các giảng viên Việt Nam có các cơ hội học tập, thực hành và ứng dụng tích cực những kiến thức, kỹ năng học được trong các chương trình

đào tạo quốc tế vào thực tế giảng dạy, làm việc, khuyến khích tính sáng tạo và tạo môi trường tự đào tạo tích cực, góp phần thúc đẩy cổ vũ tích cực cho tâm thế học tập suốt đời như một xu hướng học tập mới trong một xm hội phát triển.

- Về cách tiếp cận trong ĐTPT đội ngũ giảng viên, sự phối hợp giữa cá nhân và tổ chức, giữa nhà trường và bộ môn: với đặc thù tổ chức các chương trình HTĐTQT như những dự án tương đối độc lập, các chương trình HTĐTQT thường thuộc sự quản lý trục tiếp của ban giám hiệu. Các chương trình HTĐTQT, nhờ vậy, thường có lợi thế trong việc huy động nguồn lực tốt nhất của toàn bộ nhà trường. Nhưng ngược lại, điều này đồng thời cũng có lúc làm cho chương trình gặp khó khăn khi huy động nguồn lực vì dự án là của chung, không thuộc đơn vị nào. Để các chương trình được triển khai thành công, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trong toàn trường, giữa các cá nhân với các đơn vị - các khoa và các bộ môn.

(i) Về nội dung ĐTPT: Các chương trình HTĐTQT đem lại những tác động tích cực trong ĐTPT đội ngũ giảng viên, qua việc trực tiếp đào tạo giảng viên và tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc tự đào tạo của giảng viên về các mặt: chuyên môn, ngoại ngữ, phương pháp giảng dạy và phát triển các kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu.

Các chương trình HTĐTQT, bao gồm các chương trình tài trợ của các dự án và sau đó là các chương trình liên kết đào tạo trang trải một phần kinh phí hay tự trang trải toàn bộ kinh phí đều có những đặc điểm chung sau đây:

- Chương trình đào tạo chuẩn quốc tế;

- Ngôn ngữ giảng và học tập là ngôn ngữ quốc tế;

- Có sự tham gia của các giáo sư ở trình độ quốc tế

99


Những yếu tố này cho phép các giảng viên được đào tạo hay làm việc trong chương trình các cơ hội cập nhật kiến thức chuyên môn, củng cố khả năng ngoại ngữ, cũng như học hỏi và phát triển các kỹ năng giảng dạy, làm việc, cách tiếp cận và nhận thức về một môi trường đào tạo theo chuẩn quốc tế, “lấy người học làm trung tâm”.

Đối với các chương trình HTĐTQT thuộc các dự án tài trợ, được xây dựng với mục tiêu chính là đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ giảng viên nòng cốt về kinh tế thị trường, các dự án này đm đạt được những kết quả đặc biệt có ý nghĩa cho các trường ĐH thuộc khối kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là hai trường ĐH Kinh tế lớn nhất của Việt Nam - ĐH KTQD Hà Nội và ĐH Kinh tế TPHCM. Các chương này đều là những chương trình được tài trợ 100% kinh phí, người học chủ yếu là các giảng viên và có thêm một số ít các học viên khác từ các đơn vị ngoài các trường đại học, nhằm đảm bảo tính đa dạng trong học viên, một yếu tố cần thiết để chương trình thành công.

Về khía cạnh chuyên môn, các dự án được tài trợ chủ yếu đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao với chuyên môn các ngành kinh tế và quản lý chung như: chương trình Diploma về Kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô (Dự án Ford của Mỹ), chương trình thạc sĩ Kinh tế phát triển Việt Nam - Hà Lan giai đoạn đầu, chương trình Thạc sĩ về Kinh tế Tài chính (MSc Sida), chương trình Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh (Dự án Sida MBA, SAV), chương trình Thạc sĩ Kinh tế Y tế, chương trình Thạc sĩ về Phương pháp nghiên cứu hợp tác với ĐH Maccquarie, óc, chương trình đào tạo Tiến sĩ SAV. Các chuyên ngành trên là chuyên ngành cơ bản của khoa học kinh tế và quản lý, nhằm đào tạo ra những người có khả năng phân tích, tư duy trong nền kinh tế thị trường. Từ đó có thể định hướng cho nền kinh tế thị trường phát triển.Việc xây dựng các chương trình đào tạo này, đặc biệt ở hai lĩnh vực – Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, hướng vào đội ngũ giảng viên, nhằm đào tạo một đội ngũ “máy cái” cho nền giáo dục của ta, đm góp phần quan trọng trong việc giúp cho các trường ĐH khối kinh tế đổi mới nội dung đào tạo,

đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế theo định hướng thị trường.

100


Các chương trình tài trợ này đm góp phần đào tạo hàng trăm giảng viên có kiến thức và các kỹ năng hiện đại cho các trường ĐH khối kinh tế (bảng 2.5).

Bảng 2.5: Số giảng viờn được đào tạo tại các chương trình HTĐTQT lớn



Các loại chương trình

Số giảng viên được

đào tạo trước năm 2000

Số giảng viên

được đào tạo sau năm 2000


Tỉng sè

Chương trình được tài trợ hoàn toàn


Dự án Ford

83


83

Dự án Sida - MSc; đào tạo và chuyển giao công nghệ

đào tạo từ xa


12



12

Dự án MBA - Sida

61


61

Cao học Pháp - Việt

105


105

Cao học Việt Nam - Hà

Lan

30


30

Chương trình Fulbright

67


67

Chương trình MBA SAV

160


160

Chương trình đào tạo Tiến

sĩ SAV

518

36

554

Chương trình được tài trợ một phần

Cao học Việt Nam - Hà

Lan


7

7

Cao học Pháp - Việt


15

15

Cao học Việt – Bỉ

5

20

25

Tỉng

523

78

601

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các trường Đại học khối Kinh tế của Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế - 13

(Nguồn: Tổng hợp từ Phụ lục 2)

Ngoài việc được trang bị kiến thức chuyên môn về kinh tế thị trường, đặc biệt quý giá đối với nước ta vào những năm 90 – giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi, các giảng viên được tiếp cận với phương pháp đào tạo mới mẻ, hiện

101


đại, với các phương pháp và hình thức giảng dạy phong phú, đa dạng, khuyến khích sự tham gia chủ động và khơi gợi tính sáng tạo của người học, khả năng tiếp cận và khai thác nguồn tài liệu phong phú bằng tiếng Anh, qua các phần mềm tin học ứng dụng và các phương tiện kết nối hiện đại. Điều này đm đem lại cho họ cách tiếp cận mới trong phương pháp giảng dạy, trang bị các kỹ năng và năng lực mới, đáp ứng môi trường giáo dục hiện đại. Ngoài ra, việc tiếp xúc và làm việc với các giảng viên quốc tế – những người có trình độ chuyên môn cao và phong cách làm việc chuyên nghiệp, đại diện cho các nền giáo dục tiên tiến, với triết lí giáo dục văn minh hướng vào sự giải phóng và phát triển năng lực con người một cách tối đa [57] [68] [69] làm cho các giảng viên được cập nhật và nhận thức tốt hơn về vai trò của người giảng viên trong công tác giảng dạy nói riêng và trong sự nghiệp đổi mới giáo dục nói chung.

Ngoài các chương trình được tài trợ, cần tính đến các chương trình được tài trợ một phần và các chương trình hoàn toàn tự trang trải kinh phí. Các chương trình này phần lớn được xây dựng và phát triển xuất phát từ nỗ lực duy trì và phát huy thành quả của các dự án tài trợ trong giai đoạn “hậu dự án”. Có thể kể ra các chương trình Cao học Việt Bỉ, Cao học Hà Lan – giai đoạn sau năm 1996, cao học Pháp Việt, Cao học Việt – óc, Cao học Việt Mỹ, chương trình liên kết

đào tạo Cử nhân lấy bằng của Anh tại Việt Nam...

Các chương trình đào tạo Thạc sĩ thuộc loại này tiếp tục là cơ hội đào tạo giảng viên. Tuy nhiên, số giảng viên được đào tạo trực tiếp tham gia vào các chương trình này không còn đông đảo như trong các chương trình tài trợ trước kia bởi chi phí cho khóa học thường là một số không nhỏ so với mức thu nhập bình thường của giảng viên, đặc biệt lại là giảng viên trẻ. Học phí của các chương trình này có thể từ một vài nghìn USD (cao học Việt – Bỉ khóa 1- học phí 1200 USD), đến cả chục nghìn USD (Phụ lục 3,4)

Ngoài việc trực tiếp đào tạo giảng viên với tư cách là học viên thông thường, các chương trình HTĐTQT còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra một môi trường trong đó các giảng viên được tham gia vào chương trình với các tư cách khác nhau- trợ giảng, thực tập sinh, giảng viên chính thức hoặc là người quản lý.


ë mỗi tư cách khác nhau, mỗi vị trí khác nhau, các giảng viên có cơ hội thực hành và ứng dụng những kiến thức đm được đào tạo trước kia, tiếp tục củng cố và phát triển từ nhiều khía cạnh khác nhau, về chuyên môn, về phương pháp giảng dạy, các kỹ năng của một giảng viên ở trình độ quốc tế, khả năng nghiên cứu, lòng yêu nghề nghiệp, về nhận thức về vai trò và sứ mệnh của người giảng viên đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và đối với sinh viên nói riêng...

(ii) Về hình thức và phương pháp triển khai các hoạt động ĐTPT


Nếu so sánh với các hoạt động ĐTPT giảng viên một cách truyền thống, thì sự có mặt của các chương trình HTĐTQT đem lại một bức tranh phong phú hơn hẳn về phương pháp và hình thức triển khai các hoạt động ĐTPT.

Bản thân chương trình HTĐTQT (đào tạo dài hạn và ngắn hạn), với phương pháp giảng dạy hiện đại đm mang lại hiệu quả đào tạo cao cho các học viên trong chương trình. Ngoài ra, các chương trình HTĐTQT còn mở ra một môi trường thực hành và ứng dụng hiệu quả cho các giảng viên. Sự có mặt của các đối tác nước ngoài trong chương trình đem lại những mối quan hệ và nguồn lực phong phú, cho phép triển khai các hoạt động đa dạng khác, các seminar, hội thảo, các chương trình báo cáo viên với các chủ đề mang tính thời sự thuộc các lĩnh vực chuyên môn, đặc biệt là các cơ hội làm việc trong chính các chương trình HTĐTQT với tư cách giảng viên, trợ giảng, các cơ hội đi thực tập tại các trường đối tác, các cơ hội tham gia vào các dự án nghiên cứu cùng với các giáo sự nước ngoài.

Chương trình MBA của Đại học Tổng hợp Boise, Mỹ, do Sida tài trợ, tại trường ĐH KTQD (thường gọi tắt là Sida MBA) là một chương trình HTĐTQT

đầu tiên đm đưa ra một mô hình ĐTPT đội ngũ giảng viên rất hiệu quả cho ĐH KTQD. Mô hình này sau đó là sử dụng và phát triển trong các chương trình HTĐTQT sau này, vừa đáp ứng được mục tiêu đào tạo của bản thân chương trình, vừa phục vụ cho mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên, đảm bảo sự phát triển bền vững của các chương trình HTĐTQT.


Chương trình đào tạo MBA được hợp tác thực hiện giữa ĐH KTQD và ĐH Tổng hợp Boise, trong khuôn khổ dự án tài trợ của Tổ chức Hợp tác phát triển Sida, Thụy Điển. Trường ĐH Hôngkông là đơn vị điều phối dự án.

Chương trình đào tạo là của trường ĐH Tổng hợp Boise, bang Idaho, Mỹ (BSU). Trường đồng thời cũng có trách nhiệm cấp bằng khi học viên tốt nghiệp. Tất cả các môn học đều do các GS của trường BSU hoặc của các trường ĐH khác được BSU chấp nhận mời sang giảng dạy trong chương trình. Đối tượng học viên chủ yếu là các giảng viên của ĐH KTQD. Để đảm bảo tính đa dạng của học viên, mỗi khóa có khoảng 10-20% học viên từ các tổ chức doanh nghiệp khác, không thuộc trường

đại học. ĐH KTQD cũng đồng thời chịu trách nhiệm cung cấp địa điểm và điều phối các vấn đề liên quan đến cơ sở vật chất để hoàn thành khóa học.

Chương trình được triển khai cho 3 khóa đào tạo liên tiếp, trong thời gian từ năm 1992 đến năm 1998. Trước khi vào khóa chính thức, các học viên được học một chương trình dự bị nhằm tăng cường khả năng tiếng Anh và đặc biệt là

được trang bị thêm một số kiến thức cơ bản về quản lý hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, đồng thời làm quen với phương pháp học tập hiện đại, trang bị một số kỹ năng học tập cần thiết.

Ngoài chương trình chính khóa là chương trình MBA theo chuẩn của trường

ĐH Tổng hợp Boise, trong chương trình còn có nội dung giảng dạy dành cho giảng viên, bao gồm các nội dung về phương pháp giảng dạy hiện đại, từ việc thiết kế bài giảng trên slides, ứng dụng và xây dựng các bài tập tình huống; các bài tập đóng vai, các trò chơi mô phỏng...; trang bị và rèn luyện các kỹ năng giao tiếp cơ bản cũng như các kỹ năng đặc thù của công tác giảng dạy.

Trong chương trình học tập chính khóa, các môn học được giảng dạy theo phương pháp mới, bản thân các giảng viên, do đó, được học tập theo phương pháp giảng dạy mới và sẽ thực sự trải nghiệm tính ưu việt của cách tiếp cận mới trong giảng dạy với tư cách của học viên. Đây là tiền đề rất tốt cho việc học tập phương pháp giảng dạy đó để họ có thể ứng dụng sau này, khi đến lượt mình

đứng ở vị trí của giảng viên.

Một “kênh” đào tạo giảng viên tiếp theo của chương trình này là từ khóa 2, các học viên – thực chất là các giảng viên, đu tốt nghiệp ở khóa trước được huy

động để làm trợ giảng cho các giáo sư trong các môn học cho các học viên khóa


sau. Các giảng viên này được giữ lại để hình thành nên một đơn vị mới trong trường – Trung tâm đào tạo về quản lý. Sự hình thành Trung tâm này cho phép triển khai một loạt các khóa bồi dưỡng ngắn hạn về các nội dung cơ bản của QTKD, từ các nội dung của công tác quản trị trong doanh nghiệp như quản trị nguồn nhân lực, quản trị marketing, quản trị chiến lược... cho đến các nội dung về phát triển kỹ năng quản lý – Kỹ năng giao tiếp, trình bày; Kỹ năng Đàm phán; Kỹ năng động viên khuyến khích nhân viên; Kỹ năng lunh đạo... Các khóa học dành cho các cán bộ quản lý trung và cao cấp của các doanh nghiệp Việt Nam,

được tiến hành bằng tiếng Việt và do các giảng viên Việt Nam đảm nhận, song họ được làm việc sát cánh cùng các giảng viên nước ngoài trong việc thiết kế chương trình và xây dựng nội dung đào tạo. Các phương pháp mới được sử dụng một cách tích cực, các tài liệu giảng dạy phong phú được xây dựng trên cơ sơ tham khảo nguồn tài liệu hết sức quý báu bằng tiếng Anh.

Bên cạnh hoạt động giảng dạy trong chương trình MBA và trong các khóa

đào tạo ngắn hạn, các giảng viên còn được tham gia vào các hoạt động nghiên cứu tư vấn, vốn hết sức mới mẻ vào đầu những năm 90. Vào thời điểm đó, các công ty nước ngoài đu có mặt tại Việt Nam. Các giảng viên nước ngoài là người hiểu rõ hơn hết những nhu cầu của các công ty này trong việc tìm hiểu các thông tin về thị trường cũng như các dịch vụ tư vấn khác, vốn quen thuộc với họ trong các nền kinh tế phát triển. Và VMI – nhóm tư vấn về quản lý (Vietnam Management Initiatives) đu được thành lập để đáp ứng nhu cầu đó của các doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, đồng thời mở ra “sân chơi” mới cho các giảng viên của Trung tâm, cho phép họ được học hỏi và thực hành một loại hoạt động mới, nghiên cứu và tư vấn. Các công ty nổi tiếng, Coca Cola, Ford, các tổ chức quốc tế, GTZ, DANIDA... đu là những khách hàng đầu tiên của VMI, trong một giai đoạn vừa học vừa làm tuy vất vả song đầy hứng thú và rất đáng nhớ của đội ngũ giảng viên của Trung tâm đào tạo quản lý – sau này đổi tên thành Viện QTKD của trường ĐH KTQD.


Nguồn: Báo cáo Dự án [27]. Phỏng vấn cựu học viên của dự án

Xem tất cả 222 trang.

Ngày đăng: 05/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí