giữa tích luỹ và đầu tư đã kìm hãm sản xuất và dẫn đến thất nghiệp trầm trọng, gây mất ổn định xã hội, nợ nước ngoài gia tăng.
Như vậy, hầu hết đang phát triển đang đều ở trong tình trạng: cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, khoa học kỹ thuật lạc hậu, phân công lao động chưa phát triển, khoa học kỹ thuật đang được xây dựng... Ở nhiều quốc gia, sản xuất nông nghiệp vẫn đang còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Đó cũng là nguyên nhân cơ bản làm cho các quốc gia này đang rất khó khăn trong việc giải quyết hàng loạt những vấn đề kinh tế xã hội như: thất nghiệp, nghèo đói, bệnh dịch, sự lạc hậu về y tế và giáo dục...
Để thoát khỏi tình trạng đó thì các nước đang phát triển không còn con đường nào khác là lựa chọn con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là giải pháp quan trọng (nếu không muốn nói là quan trọng nhất) nhằm xây dựng một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn. Chỉ có công nghiệp hoá - hiện đại hoá mới làm cho các nước đang phát triển thay thế được lao động thủ công lạc hậu bằng lao động sử dụng máy móc, cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân; thay thế máy móc, thiết bị và công nghệ bằng máy móc thiết bị và công nghệ ngày càng hiện đại hơn. Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại mà hiện nay, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, tiến bộ là tỉ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỉ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng; tỉ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Vì thế chỉ có cách tiến hành công nghiệp hoá
- hiện đại hoá mới làm được điều đó. Ngày nay lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão, khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do đó mà các nước đang phát triển phải tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá để
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống con người từ đó xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại, để chế tạo ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và đảm bảo đạt tới tiến bộ kinh tế, tiến bộ xã hội; công nghiệp hoá - hiên đại hoá còn để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại. Như thế có nghĩa là, công nghiệp hoá không chỉ là sự phát triển công nghiệp mà còn là xây dựng quan hệ phù hợp giữa công nghiệp và các ngành kinh tế khác, tạo điều kiện cho các ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, hưóng tới mục tiêu tiến bộ xã hội, là con đường tất yếu đối với các nước đang phát triển.
* Phát triển nguồn nhân lực - yếu tố quan trọng đảm bảo thành công của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
“Công nghiệp hoá - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
Như vậy, có thể nói, về thực chất công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Đó không chỉ là quá trình tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỉ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với việc đổi mới công nghệ một cách thường xuyên, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc
Có thể bạn quan tâm!
- Đào tạo công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá - 1
- Đào tạo công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá - 2
- Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật Và Vai Trò Của Nó Đối Với Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá
- Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Trong Việc Phát Triển Hệ Thống Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật
- Khái Quát Về Hệ Thống Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật Thời Kỳ Trước Đổi Mới
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
dân. Công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá, kết hợp với những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát triển theo chiều rộng, tạo ra ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động với tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, phát triển theo chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ phát triển của khoa học và công nghệ thế giới.
Cũng có thể nói, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một quá trình xây dựng xã hội văn minh, cải biến căn bản các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội theo phong cách của nền công nghiệp hiện đại, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Nó không chỉ thể hiện ra ở các chỉ số khoa học - kỹ thuật - công nghệ hay kinh tế - kỹ thuật mà quan trọng hơn là đảm bảo cho xã hội phát triển như một chỉnh thể toàn vẹn (kinh tế - xã hội, vật chất - tinh thần), trên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, vì tiến bộ xã hội và phát triển con người toàn diện.
Nói một cách khái quát, công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong thời đại ngày nay là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở trình độ khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, ở nền kinh tế phát triển cao, xã hội được tổ chức khoa học và hợp lý mà còn ở đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con người, ở sự giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết, như: nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vị trí địa lý và nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động và
vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Để xem xét vai trò của nguồn lực con người đối với công nghiệp hoá - hiện đại hóa cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành, bại của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời phải đặt công nghiệp hoá trong tình hình này, khi cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực luợng sản xuất.
Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế, trong các yếu tố cấu thành lực luợng sản xuất, người lao động là một yếu tố quan trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại.
Như đã biết, muốn công nghiệp hoá phải có vốn và nó chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay nhưng con người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và nhưng ưu thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất ý nghĩa, nếu chủ nhân của nó không có năng lực khai thác. Ngày nay, trước xu thế quốc tế hoá đời sống
kinh tế, sự hợp tác và thu hút đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực phát triển quan trọng của nhiều nước. Nó tạo ra “cái hích” kinh tế, nhất là với các nước có điểm xuất phát thấp. Nhưng sức mạnh của "cái hích” đó đến đâu, tác động tích cực của nó như thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó. Xét đến cùng, thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm "nguồn lực” cũng không còn lý do để tồn tại.
Hơn nữa, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận của trí tụê con người biểu hiện ở chỗ, nó có khả năng không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, mà con tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận, xét trên bình diện cộng đồng, nhân loại. Nhờ vậy, con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra những tài nguyên thiên nhiên mới hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên.Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo, con người bằng trí tuệ và lao động của mình đã liên tiếp chế tạo ra các thế hệ công cụ sản xuất mới nhằm tác động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá, đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp lên cao, tự nó đã nói lên tính vô tận của trí tuệ con người. Đúng là, "Tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết” [24, tr.41].
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó đã được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Ở những nước này, lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá tri sản lượng quốc gia, vi như ở Nhật Bản, riêng nguồn lợi do tin học mang lại đã chiếm tới 40%. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt chước” hay “phỏng” theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là, bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, Alvin Toffler đã xếp quyền lực trí tuệ ở vị trí hàng đầu trong tất cả các loại quyền lực đã từng có trong lịch sử.
Chính kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy, sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ không đạt được kết quả tốt nếu không lựa chọn được mô hình đúng, các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực khác. Không hiếm các nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên và được tài trợ lớn từ bên ngoài nhưng vẫn không thành công trong việc công nghiệp hoá. Điều này một lần nữa nói lên vai trò quyết định của nguồn lực con người - chủ thể trực tiếp, hiện thực của toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động - con người với trí tuệ và lao động được định hướng bởi trí tuệ đó đã và đang là tài sản quý giá nhất, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò này ngày càng tăng lên khi trí tuệ hoá lao động đang trở thành xu thế phổ biến. Vì vậy, trong
chiến lược phát triển của mình nhiều nước đã đặt con người vào vị trí trung tâm, quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác vào chính bản thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông Á là những cứ liệu xác thực cho nhận thức về vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Sự thành công của những nước này do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân mang tính đặc trưng đó là họ đã sớm nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu tư thoả đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao động, đặc biệt là các yếu tố văn hoá, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một bước về giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khoá của sự tăng trưởng, là điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của công nghiệp hoá. Chẳng hạn để chuẩn bị cho công nghiệp hoá Hàn Quốc đã có kế hoạch “trí tuệ hoá” toàn dân. Nhờ vậy ngay từ năm 1960 họ đã đạt được 100% lao động có trình độ văn hoá cấp I, đến năm 1990 thì 94% người lao động đã tốt nghiệp cấp II và năm 1980 họ đã tới mặt bằng học vấn là 8,0 lớp. Chi phí cho giáo dục của họ chiếm tới 20% tổng chi phí ngân sách nhà nước [4. tr.58] hay ở Đài Loan, trong 30 năm từ 1952 đến 1981 tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 26,43 lần nhưng kinh phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần. Có thể nói rằng, nền kinh tế của các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ vào sự phát triển nhanh của giáo dục và khoa học kỹ thuật. Kinh nghiệm về xây dựng và sử dụng nguồn lực con người của các nước công nghiệp mới Đông Á là những bài học bổ ích, rất đáng để cho các nước chuẩn bị bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá tham khảo.
Vai trò quyết định của nguồn lực con người chỉ trở thành hiện thực khi người lao động có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được những yêu cầu mà quá trính công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi.
Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết là trí tuệ, bởi vì “tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ” tức là phải thông qua trí tuệ. Trình độ trí tuệ phản ánh qua trình độ học vấn và tài năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở tài năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, ở sự nhạy bén thích ứng nhanh và làm chủ được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại có kỹ năng lao động nghề nghiệp có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện biết quản lý sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường và phân công lao động quốc tế. Để có được những năng lực này, ngoài tư chất ban đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào tạo, vì đó là phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn, nghề nghiệp, là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của con ngưòi.
Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ - yêu cầu không thể thiếu được đối với người lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Nó bao gồm không chỉ sức khoẻ cơ thể mà còn cả sức khoẻ tinh thần, đó là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là sức mạnh của niềm tin và ý chí, là khả năng vận động trí lực... điều này càng có ý nghĩa quan trọng khi lao động trí tuệ ngày một chiếm ưu thế.
Sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt các phẩm chất như: kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, tích cực bảo dưỡng thiết bị máy móc, có tinh thần hợp tác và tác và phong lao động công nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao đối với sản phẩm... Nghĩa là người lao động phải có văn hoá lao động công nghiệp.