Độ bền vững của các điểm du lịch phụ thuộc nhiều vào tính nhạy cảm, dễ phá huỷ của các hệ sinh thái. Ví dụ, hệ sinh thái san hô rất dễ bị phá huỷ và quá trình phục hồi tự nhiên rất lâu trong khi hệ sinh thái rừng khô hạn hoặc rừng tràm ít nhạy cảm trước những tác động và quá trình phục hồi nhanh hơn khi bị phá huỷ.
(5) Vị trí và khả năng tiếp cận điểm du lịch có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thụ hút khách du lịch. Vị trí và khả năng tiếp cận các điểm du lịch được đánh giá thông qua các chỉ tiêu về khoảng cách, thời gian đi đường, chất lượng đường và các loại phương tiện có thể sử dụng.
Để xác định mức độ thuận lợi để xây dựng phát triển các điểm du lịch từ góc độ khoảng cách từ thị trường nguồn đến vị trí điểm du lịch, trên cơ sở thực tiễn hoạt động du lịch, thường sử dụng 4 cấp:
+ Rất thuận lợi: khoảng cách 10 - 100 km, thời gian đi đường ít hơn 3h và có thể sử dụng từ 2 - 3 phương tiện vận chuyển thông dụng.
+ Khá thuận lợi: Khoảng cách 100 - 200 km, thời gian đi đường ít hơn 5h và có thể sử dụng từ 2 - 3 phương tiện vận chuyển thông dụng.
+ Thuận lợi: Khoảng cách 200 - 500 km, thời gian đi đường ít hơn 12h và có thể sử dụng từ 1 - 2 phương tiện vận chuyển thông dụng.
+ Kém thuận lợi: Khoảng cách trên 500 km, thời gian đi đường hơn 24h và có thể sử dụng từ 1 - 2 phương tiện vận chuyển thông dụng.
(6) Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có ý nghĩa rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác các tài nguyên và phục vụ khách du lịch. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được đánh giá bằng số lượng, chất lượng, tính đồng bộ, các tiện nghi của cơ sở với các tiêu chuẩn quốc tế, quốc gia.
Đây được xem là tiêu chí có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển điểm, tuyến du lịch với 4 mức độ khác nhau:
+ Rất tốt: Điều kiện về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Với điều kiện này, việc khai thác các tiềm năng để phát triển điểm, tuyến du lịch rất thuận lợi đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách ở trình độ cao.
+ Khá tốt: Có cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn quốc gia.
+ Trung bình: Có được một số cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, đạt tiêu chuẩn quốc gia, tuy nhiên tính đồng bộ bị hạn chế.
+ Kém: Điều kiện về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch yếu kém, không đồng bộ với chất lượng hạn chế và không đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Đối với hoạt động du lịch bền vững, yêu cầu về điều kiện hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật mặc dù không cao và khắt khe như đối với hoạt động du lịch đại chúng, tuy nhiên điều kiện hạ tầng để tiếp cận điểm du lịch cũng như một số yếu tố hạ tầng tối thiểu như cung cấp nước sinh hoạt, thông tin liên lạc, dịch vụ y tế,... đòi hỏi phải đồng bộ và đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Ngoài ra hiệu quả khai thác cũng có thể được xem như một tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá và có những biện pháp khai thác và điều chỉnh thích hợp tới mỗi điểm du lịch.
Căn cứ vào mục đích, yêu cầu cũng như những điều kiện cụ thể để lựa chọn các tiêu chí đánh giá thích hợp.
- Xác định các cấp của từng tiêu chí
Mỗi tiêu chí thường được đánh giá theo các cấp, thường gồm 3, 4 hoặc 5 cấp từ cao xuống thấp, nhiều đến ít, tốt đến xấu, ứng với các mức độ thuận lợi khác nhau. Vì các điểm du lịch ít nhiều đã được lựa chọn nên sẽ không có tiêu chí nào được đánh giá là không thuận lợi mà chỉ ở các mức độ thuận lợi ít hay nhiều mà thôi. Phần lớn các công trình đánh giá tài nguyên du lịch hiện nay thường sử dụng 4 cấp (rất nhiều, khá nhiều, trung bình, ít) để chỉ 4 mức độ thuận lợi (rất thuận lợi, khá thuận lợi, trung bình và ít thuận lợi).
- Xác định chỉ tiêu của mỗi cấp
Việc xác định các chỉ tiêu cụ thể ứng với mỗi cấp là rất cần thiết, có tính chất định lượng để có thể so sánh các kết quả đánh giá với nhau. Để đảm bảo cho việc xác định chỉ tiêu của mỗi cấp được chính xác cần dựa trên các cơ sở điều tra, tính toán, thực nghiệm hoặc ý kiến chuyên gia.
- Xác định điểm của mỗi cấp
Để tiến hành đánh giá bằng cách tính điểm, cần xác định số điểm cho mỗi cấp. Trong thang đánh giá, số điểm của mỗi cấp của các tiêu chí đều bằng nhau.
Điểm của mỗi cấp thông thường được tính từ cao xuống thấp. Đối với số cấp của mỗi tiêu chí là 4 thì điểm cụ thể sẽ là 4, 3, 2, 1.
- Xác định hệ số (trọng số) của các tiêu chí
Trên thực tế, các tiêu chí được lựa chọn để đánh giá tài nguyên du lịch có các tính chất, mức độ và giá trị không đồng đều. Vì thế để đảm bảo tính chính xác và khách quan của kết quả đánh giá rất cần thiết phải xác định thêm hệ số cho các tiêu chí quan trọng hơn. Để làm được việc này người đánh giá thường căn cứ vào các kết quả nghiên cứu, điều tra hoặc bằng trực giác trên cơ sở tích lũy các kinh nghiệm để xác định chính xác các hệ số. Các hệ số này có thể là 1, 2 hoặc 3 đối với mỗi tiêu chí và sẽ được nhân với số điểm của tiêu chí đó để tính điểm chung.
Bước 3. Tiến hành đánh giá
Tiến hành đánh giá nhằm xác định được điểm đánh giá. Điểm đánh giá bao gồm số điểm đánh giá riêng của từng tiêu chí và số điểm đánh giá tổng hợp tất cả các tiêu chí.
Điểm đánh giá riêng của từng tiêu chí là số điểm của các cấp đánh giá nhân với hệ số của tiêu chí đó. Như vậy điểm đánh giá riêng cao nhất của một tiêu chí đối với cấp cao nhất (4) và có hệ số cao nhất (thí dụ là 3 trong 3 hệ số 1, 2 và 3) sẽ là: 4 x 3 = 12 điểm. Và điểm đánh giá riêng thấp nhất là các cấp thấp nhất của tiêu chí có hệ số thấp nhất sẽ là: 1 x 1 = 1 điểm.
Điểm đánh giá tổng hợp là tổng số các điểm đánh giá riêng của từng tiêu chí. Trong trường hợp đánh giá tổng hợp với 6 tiêu chí và 3 hệ số như đã nêu trên thì tổng số điểm cao nhất sẽ là 56 điểm (12 + 8+ 12 + 4+ 12 +8) và tổng số điểm thấp
nhất là 14 (3 + 2 + 3 + 1 + 3 + 2).
Cũng có một số công trình đánh giá lấy điểm đánh giá tổng hợp là tích của các điểm đánh giá riêng. Cách làm này nhằm phân biệt các kết quả một cách rõ rệt hơn song thực tế sẽ phức tạp hơn rất nhiều.
Cũng cần nói thêm rằng, cách cộng điểm để đánh giá kết quả chung hiện nay vẫn đang được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đánh giá khác nhau.
Việc đánh giá này có thể tiến hành với từng đối tượng song cũng có thể tiến hành
với nhiều đối tượng khác nhau miễn là cùng sử dụng chung một thang đánh giá.
Bước 4. Đánh giá kết quả
Căn cứ vào sổ điểm tối đa mà thang điểm đánh giá đã xác định (56 điểm - ứng với 100%) và kết quả đánh giá cụ thể tại mỗi đối tượng đánh giá để xác định tỷ lệ % số điểm đã đạt được so với số điểm tối đa. Mức độ đánh giá ĐKTN/TNDL như sau (bảng 1.1)
Bảng 1.1. Mức độ đánh giá điều kiện tự nhiên phục vụ phát triển du lịch
Sổ điểm | Tỷ lệ % so với điểm tối đa | |
Rất thuận lợi | 45 - 56 | 81 - 100 |
Khá thuận lợi | 34 - 44 | 61 - 80 |
Trung bình | 23 - 33 | 41 - 60 |
Kém thuận lợi | 14 - 22 | 25 - 40 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên cho mục đích phát triển bền vững du lịch huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc - 1
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên cho mục đích phát triển bền vững du lịch huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc - 2
- Phương Pháp Đánh Giá Điều Kiện Tự Nhiên Để Phát Triển Du Lịch
- Nhóm Các Công Trình Nghiên Cứu Về Đánh Giá Điều Kiện Địa Lý Và Tài Nguyên Du Lịch
- Vị Trí Địa Lý - Tài Nguyên Vị Thế
- Thổ Nhưỡng - Tài Nguyên Đất Và Hiện Trạng Sử Dụng Đất
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Phương pháp đánh giá tổng hơp ĐKTN/TNDL có ưu điểm là đảm bảo tương đối khách quan, dễ thực hiện có thể cho phép nhìn nhận một cách nhanh chóng và toàn diện tiềm năng phát triển du lịch tại mỗi điểm du lịch, khu du lịch bằng những giá trị đã được lượng hoá. Tuy nhiên nó cũng sẽ thiếu chính xác nếu như thiếu các tài liệu điều tra khảo sát và một phần lệ thuộc vào chủ quan của người đánh giá.
Chính vì vậy rất cần thiết được bổ sung thêm các phương pháp chuyên gia và phương pháp điều tra xã hội học để có những điều chỉnh kịp thời.
1.1.4 Lý luận về phân vùng địa lý tự nhiên phục vụ phát triển du lịch
1.1.4.1 Quan điểm, nguyên tắc và phương pháp phân vùng
a) Quan điểm phân vùng
Vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có sắc thái đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống, có mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó và có mối quan hệ chọn lọc với khoảng không gian bên ngoài [64]. Vùng có quy mô rất khác nhau, song dù quy mô vùng thế nào cũng đều có điểm chung là một lãnh thổ có ranh giới nhất định, trong đó có sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố tự nhiên, môi trường và con người.
Phân vùng địa lý tự nhiên là phân chia lãnh thổ thành những thể tổng hợp có ranh giới khép kín, có những đặc điểm riêng không giống các vùng khác và không
lặp lại trong không gian [23]. Các vùng được phân ra phải là các tổng thể không gian xác định, vừa theo quy luật về tính hoàn chỉnh, vừa theo quy luật về tính không gian của toàn bộ cũng như từng vùng địa lý [34]. Mỗi một vùng sẽ là một hệ thống tổng hợp phức tạp, là đơn vị cấu trúc của các vùng bậc cao hơn, đồng thời là tập hợp của các hệ thống phức tạp hơn [21].
b) Nguyên tắc phân vùng
- Nguyên tắc khách quan: nhằm đảm bảo tính chính xác và khoa học trong việc lựa chọn chỉ tiêu các cấp phân chia, xác định ranh giới các vùng, tiểu vùng phù hợp với quy luật phân hóa khách quan của tự nhiên.
- Nguyên tắc tổng hợp: khi phân vùng địa lý tự nhiên của một lãnh thổ cần xem xét đến mọi thành phần cấu tạo của một địa tổng thể, không trừ thành phần nào. Từ đó, tổng hợp tất cả đặc điểm của các yếu tố chung nhất để sắp xếp các thể tổng hợp tự nhiên vào một cấp phân vùng.
- Nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ: nhằm phân chia thành những vùng tự nhiên không lặp lại trong không gian, không có những bộ phận cách nhau về mặt lãnh thổ.
- Nguyên tắc về tính đồng nhất tương đối của tổng thể tự nhiên: cho phép phân chia các lãnh thổ có điều kiện tự nhiên gần nhau đồng nhất một cách tương đối theo các đơn vị phân vùng.
- Nguyên tắc yếu tố trội: trong mỗi bậc của hệ thống phân vùng được đặc trưng bởi một thành phần hoặc yếu tố tự nhiên nào đó chiếm ưu thế, song không là tuyệt đối. Nhân tố chiếm ưu thế tại một phạm vi nhất định sẽ tạo ra sự phân hóa lãnh thổ nhất định. Áp dụng nguyên tắc yếu tố trội sẽ giải quyết được sự phân cấp trong hệ thống phân vị khu vực nghiên cứu.
c) Phương pháp phân vùng
- Phương pháp phân chia thành các tiểu vùng: Phân chia lãnh thổ nghiên cứu thành những tiểu vùng dựa vào đặc điểm tự nhiên (địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, thảm thực vật...), hoặc phân chia theo ranh giới (ranh giới của mỗi tiểu vùng có thể trùng hoặc không trùng với ranh giới của các đơn vị hành chính).
- Phương pháp phân kiểu: Trong một vùng lãnh thổ có thể có nhiều kiểu vùng khác nhau. Mỗi kiểu vùng có những đặc điểm riêng không giống các đơn vị liền kề. Kiểu vùng có tính lặp lại trong không gian. Kiểu vùng được áp dụng để
phân chia lãnh thổ theo các dạng tài nguyên cho mục đích khai thác, sử dụng trong các ngành kinh tế và trong thực tiễn hoạt động nhân sinh.
1.1.4.2 Ý nghĩa của phân vùng đối với tổ chức lãnh thổ du lịch
Quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên du lịch là một trong những nhiệm vụ hàng đầu đối với phát triển du lịch của từng quốc gia và lãnh thổ. Tuy nhiên việc quản lý lãnh thổ theo không gian cần dựa trên các kết quả nghiên cứu địa lý, phân chia khu vực nghiên cứu thành các tiểu vùng nhằm hoạch định không gian phát triển du lịch gắn với khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên.
Đối với mục tiêu phát triển du lịch, phân vùng địa lý tự nhiên thực chất là phân chia lãnh thổ thành các tiểu vùng, nhằm xác định tính thuần nhất về đặc điểm tự nhiên, văn hóa và tính tương đồng về tài nguyên du lịch theo từng tiểu vùng cụ thể. Mỗi tiểu vùng được xem như một địa hệ thống bao gồm các điều kiện tự nhiên, tài nguyên và các hoạt động kinh tế, xã hội, du lịch có tác động qua lại lẫn nhau. Các tiểu vùng được phân chia dựa trên các tiêu chí về tính đồng nhất tương đối của điều kiện tự nhiên, tính đặc thù của tài nguyên du lịch và khả năng khai thác, sử dụng các dạng tài nguyên đó.
Nghiên cứu, đánh giá tổng hợp các tiểu vùng sẽ xác định được mức độ thuận lợi về điều kiện địa lý và tài nguyên của từng tiểu vùng đối với phát triển du lịch, cũng như sự phù hợp của từng tiểu vùng đối với các loại hình du lịch cụ thể. Như vậy sẽ khai thác được hiệu quả tiềm năng và thế mạnh về tài nguyên du lịch, xây dựng được các loại hình và các sản phẩm du lịch phù hợp với tính chất và không gian theo từng lãnh thổ. Đối với nội dung của luận văn, đây chính là luận cứ khoa học cho những định hướng TCLTDL của huyện Tam Đảo theo hướng bền vững.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Trên thế giới
1.2.1.1 Nhóm các công trình nghiên cứu về lý luận du lịch
- Hướng nghiên cứu mang tính lý luận về du lịch. Dưới góc độ xã hội, du lịch là sự di chuyển tạm thời của con người từ nơi cư trú đến nơi khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu nghỉ dưỡng, thể thao giải trí; Dưới góc độ kinh tế, du lịch được coi là một ngành kinh tế siêu lợi nhuận [31, 32, 42, 43]; Một số công trình nhìn nhận du lịch dưới cả hai góc độ kinh tế và xã hội, coi du lịch như một ngành “công nghiệp
không khói”, có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu tham quan, du lịch, giải trí (Mathieson và Wall, 1992; J.L.Michaud, 1983); Dưới góc độ tiếp cận cộng đồng, du lịch là tổng hòa các hiện tượng và mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa du khách, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng địa phương (M.M.Coltman, 1991; Robert W.McIntosh, Chaler R.Goelder, J.R.Brent Ritchie, 1995); Dưới góc độ môi trường, Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là những người đầu tiên cảnh báo về suy thoái môi trường do hoạt động du lịch gây ra với những khái niệm về “du lịch rắn - hard tourism” để chỉ loại hình du lịch ồ ạt gây tổn hại đến môi trường và “du lịch mềm - soft tourism” nhằm hướng đến một chiến lược du lịch tôn trọng môi trường.
- Hướng nghiên cứu về DLST. Được xác định là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, nhưng DLST cũng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau: Laarman và Durst (1987) nhấn mạnh yếu tố tự nhiên nhưng lại chưa đề cập đến vấn đề bảo tồn; Boo (1991), coi những giá trị tự nhiên và văn hóa là nền tảng của DLST; Allen (1993) đề cập đầy đủ hơn mối quan hệ giữa tự nhiên và con người, đồng thời đặc biệt chú trọng tới việc giảm thiểu tác động tới môi trường và đáp ứng được những lợi ích của người dân địa phương. Nhiều tổ chức Quốc tế cũng có đồng quan điểm cho rằng DLST là sản phẩm dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, có trách nhiệm giáo dục môi trường, đóng góp cho bảo tồn và cho lợi ích cộng đồng (TIES, 1990; IUCN, 1993; UNEP/WTO, 2002). Nhiều mô hình phát triển DLST được thực hiện tại các VQG trên thế giới như: VQG Galapagos (Equador), VQG Des Volcans (Ruanda), VQG Antonio Manual (Costa Rica), VQG South Luangawa (Zambia), khu dự trữ quốc gia Maasai Mara, VQG Amboseli (Kenia), khu bảo tồn thiên nhiên Annapurma (Nepal)[36, 37].
- Hướng nghiên cứu về du lịch bền vững. Vào đầu thập kỷ 90, thuật ngữ “du lịch bền vững” lần đầu tiên xuất hiện do nhiều tổ chức và các nhà khoa học trên thế giới đề cập (UNWTO, 1992; WTTC, 1996, L.Hens, 1998), đồng thời nhiều nghiên cứu khoa học được thực hiện nhằm đưa ra các khía cạnh ảnh hưởng của du lịch đến phát triển bền vững; WWF-UK (1998) đã đưa ra 4 nguyên tắc của du lịch bền vững bao gồm: (1) phát triển du lịch trong khả năng cho phép của tài nguyên thiên nhiên nhằm bảo đảm hiệu suất cũng như sự tái sinh của tự nhiên; (2) nhìn nhận sự đóng
góp của cộng đồng địa phương và tập quán, lối sống của họ như một dạng tài nguyên du lịch; (3) đảm bảo người dân địa phương được hưởng các nguồn lợi kinh tế từ hoạt động du lịch một cách công bằng; (4) định hướng phát triển du lịch trên cơ sở mong muốn của cộng đồng địa phương [28]. Các công trình về phát triển du lịch bền vững tập trung hướng đến các mục tiêu xã hội, thông qua các hoạt động du lịch tạo công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương, giúp xóa đói giảm nghèo và góp phần bảo tồn thiên nhiên.
- Hướng nghiên cứu về sức chứa du lịch (sức chịu tải du lịch). Xuất hiện vào những năm đầu của thập kỷ 60, việc xác định sức chứa nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của du khách nhưng không gây suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, không gây xung đột xã hội giữa cộng đồng địa phương và du khách, không gây suy thoái nền kinh tế truyền thống của người dân bản địa (D’Amore, 1983; Shelby và Heberlein, 1987; Boo, 1990; Luc Hens, 1998). Sức chứa du lịch được tiếp cận theo nhiều khía cạnh như khả năng chịu tải kinh tế (O’Reilly, 1986), khả năng chịu tải xã hội, khả năng chịu tải sinh thái (Getz, 1983; Mathieson và Wall, 1992; Carpenter R.A. và Maragos J.E, 1989). Nhiều phương pháp tính sức chứa du lịch đã được đưa ra như: xác định sức chứa thường xuyên của một điểm du lịch (CPI) thông qua diện tích của khu vực (AR) và tiêu chuẩn không gian tối thiểu cho một du khách; hoặc tính sức chứa hàng ngày (CDP) của điểm du lịch bằng các chỉ số về sức chứa thường xuyên (CPI) và công suất sử dụng mỗi ngày (TR) [39]. Gần đây, phương pháp mới của A.M.Cifuentes và H.Héctor Ceballos-Lascurain về xác định khả năng chịu tải vật lý (PCC) và hiệu quả chịu tải thực tế (ERCC) về số lượng khách đã được áp dụng trong nhiều nghiên cứu.
Tóm lại, trong quá trình phát triển, khái niệm du lịch không ngừng được mở rộng. Xuất phát từ các khái niệm ban đầu cho rằng du lịch là một hiện tượng xã hội, đơn thuần là các chuyến đi xa khỏi nơi cư trú đến nhận thức cho rằng du lịch là một hoạt động kinh tế mang lại hiệu quả cao. Giai đoạn đầu, các công trình tập trung nghiên cứu về ý nghĩa giải trí và giá trị kinh tế của hoạt động du lịch. Đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khi trào lưu DLST lần đầu tiên xuất hiện, và đặc biệt khi các vấn đề về phát triển bền vững được đề cập thì các nhà khoa học bắt đầu chú