Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển trồng rừng cung cấp gỗ lớn ở tỉnh Phú Thọ - 2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN

Trang

Bảng 3.1. Dân số tỉnh Phú Thọ chia theo khu vực thành thị và nông thôn giai đoạn 2010 - 2014 31

Bảng 4.1. Diễn biến diện t ch rừng trồng ở tỉnh Phú Thọ theo loại rừng giai đoạn 2005-2015 36

Bảng 4.2. Diễn biến diện t ch rừng trồng phân theo chủ quản l ở tỉnh Phú Thọ 37

Bảng 4.3. Nhóm loài cây trồng rừng sản xuất giai đoạn 2005 - 2015 tại tỉnh Phú Thọ 38

Bảng 4.4. Kỹ thuật trồng rừng sản xuất tập trung tại tỉnh Phú Thọ 39

Bảng 4.5. Diện t ch rừng trồng gỗ lớn theo chủ thể quản l 42

Bảng 4.6. Loài cây trồng rừng gỗ lớn tại tỉnh Phú Thọ 42

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

Bảng 4.7. Kỹ thuật trồng rừng gỗ lớn tại tỉnh Phú Thọ 44

Bảng 4.8. Thông tin chung 5 mô hình trồng rừng gỗ lớn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 49 Bảng 4.9. Sinh trưởng đường k nh rừng trồng gỗ lớn tại Phú Thọ 50

Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển trồng rừng cung cấp gỗ lớn ở tỉnh Phú Thọ - 2

Bảng 4.10. Sinh trưởng chiều cao vút ngọn rừng trồng gỗ lớn tại Phú Thọ 51

Bảng 4.11. Trữ lượng lâm phần rừng trồng gỗ lớn tại Phú Thọ 52

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH VÀ BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

Trang

Hình 4.1. Mô hình gỗ lớn Keo tai tượng tại xã Khải Xuân (9 tuổi) 48

Hình 4.2. Mô hình gỗ lớn Chò nâu (13 tuổi) tại xã Chân Mộng 48

Hình 4.3. Xưởng chế biến gỗ xẻ thuộc Công Ty Cổ Phần Xuất Nhập Kh u ATS Việt Nam 54

Biểu đồ 4.1. Tăng trưởng đường k nh (D1.3) bình quân chung rừng trồng gỗ lớn tại tỉnh Phú Thọ 51

Biểu đồ 4.2. Tăng trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) bình quân chung rừng trồng gỗ lớn tại tỉnh Phú Thọ 52


ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm gần đây diện t ch rừng trồng ở nước ta liên tục tăng nhanh qua các năm. Trong giai đoạn từ 2002 đến 2016, diện t ch rừng trồng ở nước ta đã tăng từ 1,92 triệu ha lên gần 4,14 triệu ha, trung bình tăng 184.000 ha/năm, góp phần nâng độ che phủ rừng toàn quốc lên 41,19%.

Mặc dù diện t ch rừng trồng tuy tăng nhanh nhưng chủ yếu là kinh doanh gỗ nhỏ như sản xuất dăm gỗ và bột giấy xuất kh u với giá trị thấp. Trong các năm 2013 - 2015 trung bình mỗi năm chúng ta khai thác khoảng 13 triệu m3 gỗ rừng trồng cho sản xuất dăm xuất kh u và phải nhập trung bình khoảng 4 triệu m3 gỗ lớn, có chứng chỉ FSC và PEFC từ nước ngoài để phục vụ chế biến đồ mộc xuất kh u. Ngoài ra, năng suất và chất lượng rừng trồng vẫn chưa được cải thiện nhiều, sản lượng rừng trồng giảm dần theo chu kỳ kinh doanh, số lượng các giống mới được công nhận ứng dụng vào thực tiễn sản xuất còn thấp,…

Để khắc phục những tồn tại nêu trên, ngày 10/6/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong đó đã xác định: “Phát triển lâm nghiệp nhằm tăng giá trị kinh tế ngành và tăng năng lực, hiệu lực bảo vệ môi trường rừng, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Phấn đấu đến năm 2020 đạt cơ cấu kinh tế ngành là: 25% giá trị dịch vụ môi trường rừng, 25% giá trị sản xuất lâm sinh và 50% giá trị công nghiệp chế biến. Để thực hiện mục tiêu đề án, cần: Tập trung phát triển và tăng tỷ lệ rừng kinh tế trong tổng diện tích rừng của cả nước, nâng cao hiệu quả kinh tế rừng trồng theo hướng phát triển đa chức năng, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm từ khai thác gỗ non xuất khẩu dăm gỗ sang khai thác gỗ lớn nhằm tạo vùng nguyên liệu tập trung, cung cấp gỗ cho công nghiệp chế biến đồ gỗ xuất khẩu, giảm dần nhập khẩu gỗ nguyên liệu.

Để triển khai có hiệu quả Quyết định 899/QĐ-TTg của Thủ tướng Ch nh phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành một loạt các văn bản quan trọng sau:


- Quyết định số 1656/QĐ-BNN-TCLN ngày 08/7/2013 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp.

- Quyết định 774/QĐ-BNN-TCLN ngày 18/4/2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị rừng trồng sản xuất giai đoạn 2014-2020.

- Quyết định 986/QĐ-BNN-KHCN ngày 9/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Kế hoạch thúc đ y nghiên cứu và ứng dụng KHCN phục vụ tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Theo đó, những nhiệm vụ trọng tâm là: Tập trung xây dựng 3,84 triệu ha rừng trồng sản xuất, trong đó có 2,4 triệu ha rừng trồng hiện có và 1,35 triệu ha rừng trồng mới, hàng năm khai thác và trồng lại khoảng 250.000 ha; Nâng cao chất lượng rừng để đạt sản lượng gỗ thương phẩm bằng 80% trữ lượng, trong đó 40% gỗ lớn và 60% gỗ nhỏ; Đưa tỷ lệ giống cây trồng lâm nghiệp mới được công nhận vào sản suất lên 60 - 70% vào năm 2020, đảm bảo cung cấp đủ giống có chất lượng, góp phần đưa năng suất rừng trồng tăng 10% vào năm 2015 và tăng 20% vào năm 2020 so với năm 2011; Ưu tiên nghiên cứu xác định gói kỹ thuật tối ưu về chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng cung cấp gỗ lớn, trồng lại rừng sau khai thác, trồng rừng mới theo hướng thâm canh,…

Phú Thọ là tỉnh có diện t ch rừng trồng khá lớn, đây cũng là tiềm năng phát triển rừng trồng gỗ lớn, hơn nữa trên địa bàn tỉnh bước đầu đã có những mô hình phát triển gỗ lớn, tuy nhiên chưa có những đánh giá cụ thể về vấn đề này. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, đề tài: ―Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển trồng rừng cung cấp gỗ lớn ở tỉnh Phú Thọ” đặt ra là cần thiết và có ngh a khoa học và thực tiễn.



1.1. Trên thế giới

Chương 1:

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.1. Nghiên cứu về giống

Trong giai đoạn 1990 - 2000, các nghiên cứu cải thiện giống đã tập trung vào việc tìm ra các xuất xứ có năng suất cao. Các khảo nghiệm xuất xứ ở một số nước đã cho thấy biến dị di truyền về sinh trưởng, độ thẳng thân và một số tính chất về cành là rất lớn, đặc biệt có sự khác biệt giữa 3 vùng phân bố tự nhiên khác nhau của Keo tai tượng (Papua New Guinea - PNG, Queensland - Qld và North Teritory - NT), cũng như sự khác nhau rõ rệt giữa các xuất xứ của cùng một vùng địa lý. Các xuất xứ có nguồn gốc từ PNG có sinh trưởng nhanh hơn so với các xuất xứ có nguồn gốc từ Qld và NT (Awang & Taylor, 1993) [25]. Các xuất xứ có nguồn gốc từ Far North Queensland (FNQ) thể hiện khả năng chống chịu gió mạnh tốt nhất (Susumu & Rimbawanto, 2004) [51], theo đó 5 xuất xứ có triển vọng được xác định tại Malaysia là Western Province (PNG), Claudie River (Qld), Broken Pole Creke (Qld), Abergowrie (Qld) và Olive River (Qld) (Khamis bin Selamat, 1991) [42]; 3 xuất xứ có triển vọng của Keo tai tượng tại Trung Quốc là Abergowie (Qld), Claudie River (Qld), và Oriomo (PNG) (dẫn từ Nguyễn Hoàng Ngh a, 2003) [11]; 4 xuất xứ tốt nhất ở Philippin là Kini, Bensbach, Wipim (PNG), và Claudie River (Qld) (Baggayan & Baggayan, 1998) [26].

Giai đoạn 2000 - 2010, các nghiên cứu biến dị di truyền ở mức độ gia đình mới bắt đầu được chú trọng nhằm cải thiện các tính trạng sinh trưởng, chất lượng thân cây và tỷ trọng gỗ. Các kết quả đã chỉ ra rằng biến dị di truyền về sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài keo này biến động từ thấp tới trung bình (Nirsatmanto & Kurinobu, 2004 [49]; Arnold & Cuevas, 2003 [24]; Susumu & Rimbawanto, 2004 [51]), trong khi biến dị di truyền là trung bình cho tỷ trọng gỗ (Susumu & Rimbawanto, 2004) [51]. Nhìn chung, tương quan di truyền giữa sinh trưởng và chất lượng thân cây là tương quan dương (Arnold & Cuevas, 2003) [24], tức là cải thiện sinh trưởng cũng đồng thời cải thiện chất lượng thân cây.


Tăng thu di truyền thực tế của các lô hạt thu từ vườn giống thế hệ 2 tại Indonesia đạt 3,1% - 5,2% cho sinh trưởng và độ thẳng thân tốt. Chọn lọc tổng hợp 3 tính trạng này được khuyến nghị sử dụng để chọn lọc gia đình (Nirsatmanto et al., 2004) [49]. Tương tác di truyền - hoàn cảnh cũng đã xác định là có ngh a giữa Sumatra và Kalimantan, Indonesia, tuy nhiên tương tác này phụ thuộc vào tuổi và tính trạng nghiên cứu (Susumu & Rimbawanto, 2004) [51].

Tại Brazil, một số lô thí nghiệm 6 - 8 tuổi, rừng trồng Bạch đàn đã cho tăng trưởng 70 - 90 m3/ha/năm (Eldridge, 1993) [31]. Công ty Aracruz ở Brazil đã sử dụng cây lai E. grandis x E. urophylla và nhân giống bằng hom, trong rừng trồng thực nghiệm 5,5 tuổi đạt bình quân 70 m3/ha/năm (Turnbull, 1998) [52], một số công thức thí nghiệm đạt trên 100 m3/ha/năm (Eldridge, 1993) [31]. Bên cạnh thể tích thân cây, các tính trạng khác cũng cho tăng thu đáng kể như khối lượng thể tích gỗ tăng từ 480 lên 490 kg/m3, năng suất bột giấy từ 47% lên 49%, hàm lượng vỏ giảm từ 18% xuống còn 12% (Turnbull, 1998) [52].

Các nghiên cứu của Trung tâm Kỹ thuật Lâm Nghiệp Nhiệt đới ở Công Gô khẳng định tăng trưởng bình quân năm ở tuổi 6 của các lô hạt chưa được tuyển chọn là 12 m3/ha/năm trong khi tăng trưởng của các xuất xứ đã được chọn lọc là 25 m3/ha/năm và tăng trưởng của các dòng vô t nh được chọn lọc là 35 m3/ha/năm. Ở Colombia, một chương trình cải thiện giống ngắn hạn đã được đề xuất và triển khai thực hiện cho một số loài Bạch đàn như E. urophylla và E. grandis (dẫn theo Phạm Thế Dũng, 2012) [6]. Từ chương trình này, 65 dòng vô t nh trong đó có 15 dòng tốt nhất đã được dùng để sản xuất hom cho giai đoạn trước mắt. Do cường độ chọn lọc thấp nên năng suất rừng trồng dự kiến chỉ tăng khoảng 15%.

Từ năm 1983 một chương trình nghiên cứu ở Nam Phi đã được bắt đầu bằng việc chọn và nhân hom các cây trội được tuyển chọn tại chỗ và từ các khảo nghiệm hậu thế, khảo nghiệm cây Bạch đàn lai của Viện Nghiên cứu rừng Nam Phi, sau đó xây dựng các khảo nghiệm dòng vô tính nhằm chọn được các dòng vô tính có triển vọng nhất. Kết quả đã được các nhà nghiên cứu thông báo trên cơ sở các rừng trồng so sánh 30 tháng tuổi. Trong khảo nghiệm thực hiện với 30 dòng vô tính tuyển chọn


tại chỗ, tăng trưởng bình quân về thể tích cây con từ hạt (cây đối chứng) là 19,4 m3/ha/năm, trong khi đó có 14 dòng vô t nh vượt trội đối chứng và tăng trưởng bình quân năm của dòng tốt nhất đạt khoảng 24,4 m3/ha/năm. Trong một khảo nghiệm khác gồm 78 dòng vô t nh được chọn lọc từ các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 của Viện Nghiên cứu rừng Nam Phi và các dòng vô tính thế hệ 1 của vùng Mondi, cây con từ hạt (đối chứng) đạt tăng trưởng bình quân năm là 21,9 m3/ha/năm trong khi đó có 50 dòng trong số 78 dòng vô tính của Viện vượt đối chứng, 9 dòng vô t nh đạt trên 30 m3/ha/năm và 3 dòng vô t nh tốt nhất đạt tăng trưởng bình quân năm là 40 m3/ha/năm [6]

1.1.2. Nghiên cứu rừng trồng gỗ lớn các loài cây mọc nhanh

Mật độ trồng rừng gỗ lớn th ch hợp được xác định nhằm tối ưu sinh trưởng đường k nh và thể t ch cây rừng. Đối với Keo tai tượng, các nghiên cứu tại Indonesia đều cho thấy cự ly trồng rừng gỗ lớn th ch hợp là 3 x 3 m (1.110 cây/ha) (Awang & Taylor 1993; Hardiyanto et al. 2004; Krisnawati et al. 2011) [25] [37]

[43] hoặc 4 x 2 m (1.250 cây/ha) (Hardiyanto & Wicaksono 2008) [36]. Tương tự, mật độ th ch hợp trồng rừng gỗ lớn Keo tai tượng tại Malaysia cũng được xác định là hoặc 3 x 3 m (1.110 cây/ha) (National Research Council 1983) [46]. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khuyến cáo có thể trồng mật độ cao hơn để cây có thể tỉa cành tự nhiên tốt hơn, giảm k ch thước cành lớn và rủi ro nhiễm nấm bệnh, sau đó tỉa thưa định kỳ khi cây trồng có mức độ cạnh tranh ánh sáng mạnh (Weinland và Zuhaidi, 1991) [54].

Đối với Bạch đàn, nghiên cứu của Evans (1992) [32] cho loài Bạch đàn deglupta ở Papua New Guinea với các mật độ khác nhau từ 750 - 2.985 cây/ha, sau 5 năm đường k nh bình quân giảm dần khi mật độ trồng tăng, nhưng tổng tiết diện ngang lại tăng khi mật độ tăng. Tương tự, nghiên cứu của Bernardo et al. (1998)

[30] với các mật độ từ 830 - 2.220 cây/ha tại Brazil cho thấy đường k nh giảm dần khi mật độ trồng tăng, nhưng tổng sinh khối tăng khi mật độ tăng. Th nghiệm tại Pakistan của Akhtar et al. (2008) [22] trồng Bạch đàn trắng với các mật độ từ 815 -

2.500 cây/ha cho thấy mật độ th ch hợp cho trồng gỗ lớn là 1.110 cây/ha (3 x 3 m).


Như vậy, mật độ trồng có ảnh hưởng t ch cực tới sinh trưởng đường k nh, và các tác giả cho rằng, mật độ trồng làm nguyên liệu gỗ xẻ th ch hợp đối với Bạch đàn là

1.110 - 1.660 cây/ha.

Phương thức tỉa cành đã góp phần cải thiện chất lượng thân cây và gia tăng số lượng cây có thể lựa chọn để sản xuất gỗ không khuyết tật (Nicholas và Gifford 1995) [48]. Tại New Zealand, hình thức này đã được áp dụng 1 năm 3 lần, loại bỏ những cành có k ch thước nhỏ hơn 3cm, đã góp phần vào việc cải thiện hình thức thân cây từ 15-18%, giảm bớt sự cạnh tranh giữa các cây trong lâm phần về không gian dinh dưỡng. Số cành cắt bỏ dao động từ 6,9 đến 11,3 cành/cây. Khi áp dụng 2 phương pháp này cho thấy đường kính và chiều cao thân cây tăng không bị ảnh hưởng bởi các phương pháp tỉa cành trên đều góp phần làm tăng chất lượng gỗ của thân cây chính vì loại bỏ những cành nhánh không cần thiết trên thân cây.

Kỹ thuật tỉa cành đã được đề xuất để thay thế cho hình thức cắt tỉa tạo tán cho những cây mọc ở nơi đất trống (Barton 1993; Brown 1997) [27]. Loại bỏ 1/3 số cành để cải thiện chất lượng thân cây. Một phương pháp tương tự, được gọi là phân đoạn cắt tỉa, làm giảm khuyết tật và phát triển các cành lớn. Việc này được tiến hành khoảng sáu tháng sau khi trồng, và phải được thực hiện ở đầu và cuối mỗi mùa hè. Trong các nghiên cứu khác với các loài cho gỗ không khuyết tật (Herms 1964; Heichel và Turner năm 1983; Pinkard và Beadle 1998) [39] [38] [50], các tác động của việc cắt tỉa đến tốc độ tăng trưởng còn liên quan đến tổng diện tích lá bị loại bỏ và các đặc điểm sinh l như phân cấp tầng tán, phản ứng quang hợp và tỷ lệ phát triển lá sau cắt tỉa. Nicholas và Gifford (1995) [48] đề nghị loại bỏ tối đa là 50 % chiều dài tán lá. Tại Tasmania chế độ cắt tỉa đề nghị loại bỏ 40 % của chiều dài tán cây (Neilsen và Brown 1996) [47].

Tuy nhiên, việc cắt tỉa cành sẽ gây tổn thương cho cây, đây cũng ch nh là nguyên nhân giúp cho các loại vi khu n, sâu bệnh gây hại cho cây xâm nhập dễ dàng. Vết thương cắt tỉa hồi phục nhanh nhất khi vết cắt nhỏ (đường kính 1-2 cm) theo chiều dọc (Nicholas et al. 1995) [48]. Vết thương lớn (đường kính cành > 4 cm) có thể mất hơn bốn năm để lành sẹo, làm tăng nguy cơ gây bệnh hại cho cây.

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 04/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí