MỞ ĐẦU
Bệnh sốt rét (SR) là một bệnh truyền nhiễm, do ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) gây nên và muỗi Anopheles (An.) là véc tơ truyền bệnh.
Với những kết quả quan trọng đó năm 1955, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã đề ra chương trình tiêu diệt sốt rét (TDSR) trên toàn thế giới, sau đó đã mang lại kết quả nhất định tại một số nước thuộc Liên Xô cũ, Bắc Mỹ. Năm 1978 chiến lược Chăm sóc sức khoẻ ban đầu ra đời (Tuyên ngôn ALma- Ata ) đồng thời những năm cuối của thế kỷ XX bệnh SR đã quay trở lại tại nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới đặc biệt ở những nước đang phát triển (Châu Á, Châu Phi), từ đó WHO quyết định chuyển chiến lược TDSR sang phòng chống sốt rét (PCSR) với các mục tiêu thay đổi khác trước [6], [18], [34].
Theo thống kê của Chương trình PCSR quốc gia, năm 1992 cả nước có hơn 1 triệu người mắc, 4.646 chết do do SR. Đặc biệt ở khu vực miền Trung - Tây nguyên là nơi có tình hình SR khó khăn và nghiêm trọng, năm 1992 tại khu vực này đã có 337.809 người mắc và 1.314 người chết do SR [20].
Trước tình hình SR đang diễn biến phức tạp như vậy chương trình quốc gia PCSR tại Việt Nam đã đề ra mục tiêu là giảm chết, giảm mắc và khống chế dịch sốt rét, đặc biệt tập trung phòng chống sốt rét cho các huyện trọng điểm, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới [19], [20]. Từ đó đến nay công tác phòng chống sốt rét đã có những thành công đáng kể trong giảm chết, giảm mắc và khống chế dịch sốt rét [32], [33]. Tuy nhiên nhiều vùng thuộc khu vực Tây Nguyên vẫn còn nhiều thách thức trong việc duy trì thành quả đã đạt được.
Huyện Ea Soup là huyện biên giới, thuộc vùng trọng điểm SR, đời sống kinh tế văn hoá xã hội còn nhiều khó khăn, bệnh SR là một vấn đề sức khỏe ưu tiên của người dân tại cộng đồng. Đây là vùng sốt rét lưu hành rất nặng do tính chất phức tạp của hoạt động giao lưu biên giới, dân di cư tự do, đi rừng ngủ rẫy. Huyện đã được tổ chức thực hiện chương trình PCSR từ những năm trước cho đến nay, tuy nhiên hiện nay gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật cũng như về xã hội hoá công tác PCSR, trong đó mạng lưới y tế cơ sở hoạt động
chưa có hiệu quả, thực hiện chưa tốt công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng, đây là một trong ba yếu tố liên quan truyền nhiễm bệnh SR là: mầm bệnh, trung gian truyền bệnh và khối cảm thụ.
Để đạt được mục tiêu chương trình PCSR ngoài những giải pháp chung, công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng nhằm cung cấp hệ thống phát hiện sớm, chẩn đoán bệnh sớm là rất quan trọng, đồng thời quản lý chặt chẽ người mang KSTSR tại cộng đồng nhằm giảm số người mang mầm bệnh, hạn chế được lây lan, tiến tới giảm mắc bệnh [7], [10],[11], [15], [23].
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá thực trạng phát hiện và quản lý bệnh nhân sốt rét của mạng lưới y tế cơ sở tại một số xã biên giới huyện Ea Soup, tỉnh Đắklắk năm 2008-2009 - 1
- Các Dịch Vụ Y Tế Có Liên Quan Đến Phát Hiện Và Quản Lý Người Mang Kstsr Của Y Tế Xã Và Yttb .
- Các Chỉ Số Và Phương Pháp Đánh Giá Trong Nghiên Cứu :
- Kết Quả Điều Tra Kstsr Tại Các Điểm Nghiên Cứu :
Xem toàn bộ 65 trang tài liệu này.
Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành đề tài" Đánh giá thực trạng phát hiện và quản lý bệnh nhân sốt rét của mạng lưới y tế cơ sở tại một số xã biên giới huyện Ea Soup, tỉnh Đắklắk năm 2008-2009."
Nhằm các mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả hoạt động mạng lưới y tế cơ sở (xã, thôn) trong việc phát hiện, quản lý bệnh nhân sốt rét tại 3 xã biên giới huyện EaSoup.
2. Đánh giá thực trạng phát hiện, quản lý bệnh nhân sốt rét của điểm kính hiển vi với công tác quản lý ca bệnh tại 3 xã biên giới huyện EaSoup.
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược lịch sử phát hiện và phòng chống bệnh sốt rét thế giới
Năm 1783 Cellesus và Columella nghiên cứu và mô tả kỹ bệnh SR này về mặt lâm sàng. Năm 1847 Meckel trong khi mổ những bệnh nhân bị chết vì sốt rét, đã thấy những sắc tố ở trong tế bào gan. Năm 1848 Wirchow đã thấy thêm những sắc tố ở một số tế bào của bệnh nhân SR. vì vậy lúc đó người ta cho rằng SR là do sắc tố gây gây nên. Đến 1880 Leveran lần đầu tiên phát hiện được nguyên nhân gây bệnh SR, khi quan sát mấu tươi của những bệnh nhân bị SR, ông đã thấy một loại trùng cử động nhúc nhích và đặt tên là "oscillaria malaria ". Đó chính là một thể của Plasmodium trong máu.
Năm 1885, nhờ phát minh của Leveran và nghiên cứu thực nghiệm của một số tác giả (Gerhardt) đã chính thức công nhận SR là Plasmodium gây nên, từ đó nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu tìm hiểu kỹ về loại KSTSR chẳng những ở người mà còn ở nhiều loài động vật khác. Hiện nay, trên 120 loài đã phát hiện ở người và sinh vật khác, trong đó có 4 loại KSTSR ở người là P.falciparum, P.vivax, P.malariae, P. ovale.
Nguyên nhân truyền bệnh, từ lâu người ta đã nghi bệnh sốt rét có liên quan tới muỗi vì thấy bệnh thường phát triển nặng ở những vùng liên quan tới muỗi. 1894 Mason cũng cho rằng sốt rét là do muỗi truyền. Từ 1899- 1897 Ross đã nghiên cứu thực nghiệm sốt rét trên người và chim sẻ đã chứng minh vai trò truyền bệnh của muỗi. 1901-1903 Chương trình PCSR bằng diệt bọ gậy ở Malaya được đề nghị bởi Malcolm. Chiến dịch PCSR bằng chống muỗi được thực hiện bởi Ross ở Ismailia, Ai Cập [18], [33], [34].
1.2. Tình hình PCSR thế giới
Do tình hình bệnh SR gia tăng và quay trở lại nhiều vùng lảnh thổ trên toàn thế giới, Hội nghị Bộ trưởng y tế các nước thành viên vào tháng 10/1992 tại Amsterdam ( Hà Lan), WHO đã thông báo hàng năm trên toàn thế giới có khoảng gần 500 triệu người mắc bệnh, trên 1 triệu người chết, khoảng 2,2 tỷ
người, chiếm 40% dân số thế giới ở trong vùng có nguy cơ mắc bệnh SR [6], [27], [42].
Tình hình SR trong những năm gần đây đang trở nên nghiêm trọng chủ yếu tại Châu Á, Châu Phi đặc biệt tại các nước Đông Nam Á, tại khu vực này gặp khó khăn về kỹ thuật PCSR như KST, côn trùng kháng thuốc. Mặt khác dân cư sống nhiều vùng biên giới lãnh thổ của nhiều quốc gia châu Á, châu Mỹ tuy nguy cơ mắc SR thấp nhng công tác PCSR những nơi này đang gặp nhiều khó khăn vì ảnh hưởng bởi điều kiện địa lý, khí hậu, di biến động dân số, phát triển kinh tế, thay đổi môi trờng, chiến tranh, y tế cơ sở thiếu, hoạt động yếu, làm cho tình hình SR ngày càng nghiêm trọng [36], [41], [42], [44], [45].
Các công trình nghiên cứu về SR của các nhà khoa học trong những năm đầu của thế kỷ XX, đã có nhiều phát minh, lần lượt làm sáng tỏ các vấn đề kỹ thuật liên quan đến sốt rét, xác định đựơc nguyên nhân, vật chủ trung gian lây truyền, thuốc điều trị sốt rét, trong đó phát minh quan trọng là đã tìm ra được nhiều loại thuốc SR, đã có nhiều loại thuốc sốt rét được tổng hợp như primaquine, pamaquine, proguanil.. đặc biệt là chloroquine một loại thuốc ít độc có thể dùng một cách rộng rãi. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật các loại hoá chất diệt côn trùng được nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và y học, DDT được phát hiện và ứng dụng để diệt muỗi, với nồng độ tồn lưu có thể kéo dài, làm tăng hiệu quả xua diệt muỗi SR. Sự ra đời của nhiều loại thuốc điều trị SR và sử dụng DDT diệt muỗi sốt rét được sử dụng đồng loạt đã có tác dụng hiệu quả giảm nhanh số người mắc SR ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Với những kết quả đó, năm 1955 Đại hội đồng WHO lần thứ VIII đã đề xuất và chấp nhận chiến lược TDSR với mục tiêu là thanh toán SR toàn cầu [33], [34], [35], [38],[39].
Chương trình TDSR toàn cầu được WHO đề ra được hoạch định trong khoảng thơì gian từ 8-10 năm, trên cơ sở đó từng quốc gia xây dựng kế hoạch hành động cho phù hợp với mức độ và điều kiện của riêng mình. Chương
trình TDSR toàn cầu được hoạch định trong khoảng thơì gian từ 8-10 năm với các nội dung cơ bản như sau :
- Đối với mần bệnh KSTSR : Sử dụng chloroquine điều trị toàn dân, để giảm tỷ lệ nhiễm KSTSR trong cộng đồng xuống còn 1/10.000 so với số lam XN.
- Đối với vectơ truyền bệnh: Sử dụng DDT phun xua, diệt muỗi SR nhằm cắt đứt sự lan truyền bệnh SR.
- Xây dựng và nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở có đủ khả năng giám sát, quản lý người bệnh, mầm bệnh, tổ chức điều trị tiệt căn, chống tái phát, chống lây lan và bảo vệ người lành.
Trong 10 năm (1956-1965) chương trình TDSR toàn cầu đã đựơc thực hiện hầu hết tại các nước có SR, và đã đạt được những thành công đáng kể, bệnh SR ở một số quốc gia đã giảm nhiều như ở châu Âu, châu Úc, Bắc Mỹ, và một số nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Triều Tiên ) nhưng đến năm 1966 trở đi chương trình tiến triển chậm và có nơi SR quay trở lại như ở Srilanca, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á. Từ 1979, WHO chuyển sang chiến lược PCSR dựa trên mà mục tiêu là giảm mắc và giảm chết do SR [20], [33], [34].
1.3. Chiến lược PCSR toàn cầu hiện nay:
Tháng 10, năm 1992, tại Amsterdam (Hà Lan) WHO đã tổ chức Hội nghị Bộ trưởng y tế các nước thành viên để thảo luận và xây dựng một chiến lược mới nhằm đối phó với tình hình SR đang gia tăng và quay trở lại nhiều nước trên thế giới, Thông qua hội nghị này chiến lược PCSR đã được quyết định. Mục tiêu của chương trình PCSR là giảm mắc, giảm chết do SR để hạn chế ảnh hưởng thiệt hại về sức khoẻ, kinh tế của cộng đồng [6], [42].
Dựa trên điều kiện cụ thể của từng quốc gia, vùng lãnh thổ để xây dựng chương trình PCSR cho phù hợp và hiệu quả. WHO đề ra các hoạt động cơ bản của chương trình PCSR toàn cầu như sau [42]
- Quản lý bệnh SR : Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời là nền tảng của PCSR, cung cấp các phương tiện chẩn đoán, đào tạo xét nghiệm viên, đồng thời cung cấp các loại thuốc chống kháng cho những vùng có kháng thuốc.
- Dự phòng bệnh SR : Bảo vệ phòng chống nhiễm bệnh SR bao gồm các biện pháp dự phòng cá nhân (quần áo, màn tẩm...),
- Phòng chống vector : Bao gồm sử dụng hóa chất phun tồn lưu, diệt bọ
gậy ...
- Phòng chống dịch một cách chủ động, hạn chế thiệt hại do dịch SR
gây ra.
1.4. Những khó khăn của công tác PCSR hiện nay:
- Khó khăn về chuyên môn kỹ thuật: Từ 1960 khi P.falciparum kháng chloroquine được công bố tại Nam Mỹ (Brasil), Thái Lan, Việt Nam... thì hiện tượng P.falciparum kháng chloroquine lan rộng ngày càng nhanh. Muỗi Anopheles kháng hóa chất, thay đổi sinh lý sinh thái, trú ẩn ngoài nhà nhưng đốt máu trong nhà. Về kháng hóa chất của muỗi Anopheles, 1946 chỉ có 2 loài Anopheles kháng DDT nhưng 1991 có 55 loài kháng hóa chất [18], [19], [20], [27].
- Khó khăn về kinh tế, xã hội, tài chính : Do thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, và nền sản xuất chậm phát triển ở những quốc gia có SR, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển đã khiến thu nhập của nhiều quốc gia còn rất thấp, thiếu kinh phí cho PCSR.
- Hệ thống y tế, đặc biệt y tế cơ sở còn thiếu và yếu, cán bộ làm công tác vệ sinh phòng dịch - PCSR địa phương không đủ về số lượng và chưa đạt về chất lượng. Đối với bệnh SR cán bộ y tế cơ sở còn nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị, chỉ dựa chủ yếu vào triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán, không có xét nghiệm (XN) hoặc XN chưa kịp thời để phát hiện KSTSR trong máu của bệnh nhân, đặc biệt khi gặp những trường hợp bệnh SR có triệu chứng lâm sàng không điển hình thì rất khó khăn trong việc chẩn đoán và ra quyết định điều trị .
- Kinh tế của nhiều quốc gia còn nghèo, thu nhập bình quân của người dân còn thấp, môi trường sinh thái thay đổi do chiến tranh, di biến động dân cư, du lịch, du canh du cư của đồng bào các dân tộc, khai thác lâm khoáng sản được đầu tư thực hiện ở nhiều vùng, nhất là ở các nước đang phát triển, nhưng việc thực hiện các biện pháp PCSR chưa được chủ động, kém hiệu quả làm cho tình hình SR càng thêm nghiêm trọng do đó bệnh SR đã quay trở lại tại nhiều vùng lãnh thổ của nhiều quốc gia trên thế giới.
1.5. Công tác PCSR tại Việt Nam:
Việt Nam ở trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuộc Đông Nam á, đa số diện tích là rừng, núi đồi có điều kiện thuân lợi cho bệnh SR phát triển, có nhiều địa phương ở trong vùng sốt rét lưu hành (SRLH). Trong chiến lược TDSR toàn cầu, chương trình TDSR đã được tiến hành ở miền Bắc và diệt trừ SR tại miền Nam từ 1958-1975. Sau ngày miền nam được giải phóng, cả nước thống nhất tiến hành thanh toán SR từ 1976-1990 và chuyển sang chiến lựơc PCSR từ năm 1991 cho đến nay.
Trong giai đoạn từ 1991 đến nay: Trước tình hình SR quay trở lại và tăng cao trong cả nước, đặc biệt ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên, chương trình PCSR được thực hiện ở Việt Nam với mục tiêu là giảm mắc, giảm chết và giảm vụ dịch SR, với việc tích cực tổ chức thực hiện các biện pháp phát hiện, chẩn đoán và điều trị được xem là quan trọng để giảm tử vong, thì PCSR được xem là 1 nhiệm vụ CSSKBĐ của y tế cơ sở, vì vậy xây dựng, củng cố y tế cơ sở, huấn luyện cho y tế cơ sở về SR được xem là một nhiệm vụ rất quan trọng để đạt được các mục tiêu của chương trình PCSR trong giai đoạn hiện nay [18], [20], [31], [32].
1.6. Tình hình sốt rét tại huyện Ea soup.
Huyện Ea Soup là một huyện miền núi, có trên 20 km đường biên giới với Cambodia. Huyện gồm có 7 xã và 1 thị trấn, tất cả đều nằm trong vùng SRLH. Công tác PCSR tại huyện được tiến hành qua các giai đoạn như công tác PCSR chung tại Việt Nam, nhưng hiện nay còn gặp nhiều khó khăn: Địa
bàn đa số là núi đồi, rừng, nhiều sông suối, giao thông đi lại khó khăn. Trên 40
% dân số là đồng bào dân tộc Ê đê, Tày, Nùng, Thái; đời sống kinh tế văn hoá, xã hội còn nhiều khó khăn, mức sống dân cư còn thấp so với các vùng khác.
Mạng lưới y tế cơ sở còn yếu về chuyên môn, thiếu về số lượng. Di biến động dân số cơ học lớn do tăng lượt người vào rừng khai thác lâm khoáng sản, giao lưu biên giới không thể kiểm soát được ...
Trong những năm trước đây và hiện nay huyện đã thực hiện công tác phun hoá chất và tẩm màn bằng Permethrime mỗi năm từ 1 đợt kết hợp với cấp thuốc tự điều trị SR theo đối tượng nguy cơ đã góp phần làm cho tình hình nhiễm bệnh SR ổn định.
Tuy công tác PCSR trên địa bàn của huyện đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng tình hình mắc SR, tỷ lệ KSTSR giữa các xã trong huyện có nhiều khác biệt, diễn biến phức tạp. Số người mắc, và tỷ lệ người nhiễm KSTSR còn tăng (năm sau cao hơn năm trước). Các yếu tố liên quan đến công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu như hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở, sự tham gia của người dân, các yếu tố sẵn có, yếu tố tiếp cận, yếu tố sử dụng, yếu tố sử dụng đủ, yếu tố sử dụng tốt . Đây chính là vấn đề mà luận văn quan tâm và đề cập đến.
1.7. Hệ thống phát hiện và quản lý người ca bệnh tại Việt Nam và tại huyện Ea soup.
1.7.1. Hệ thống phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại Việt nam:
Công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng được xem là một biện pháp quan trọng của chương trình PCSR quốc gia. Nhưng năm trước chưa có nhân viên y tế thôn bản (YTTB), công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR chủ yếu dựa vào cán bộ y tế huyện, xã, cộng tác viên PCSR tại một số địa phương. Tuy đã có tổ chức nhưng chủ yếu là thực hiện công tác phun tẩm hoá chất PCSR, thông qua các đợt giám sát dịch tễ SR, một số thôn trọng điểm được chọn lấy lam máu XN hàng loạt để xác định