Đánh giá hiệu quả kiểm soát mảng bám răng trong dự phòng sâu răng, viêm lợi ở học sinh 12 tuổi tại một số trường ở ngoại thành Hà Nội - 2

3.16 Điểm trung bình về kiến thức CSRM của học sinh nam, nữ 73

3.17 Thái độ của HS về chăm sóc răng miệng (n=1022) 74

3.18 Thực hành vệ sinh răng miệng hàng ngày (n=1022) 75

3.19 Thực hành phương pháp chải răng (n=1022) 75

3.20 Thời gian chải răng và thời gian thay bàn chải (n=1022) 76

3.21 Loại bàn chải thường dùng và sử dụng kem đánh răng (n=1022) 76

3.22 Sử dụng nước súc miệng Fluor và sử dụng chi nha khoa để làm

sạch mặt bên của răng (n=1022) 77

3.23 ¡n, uống các loại đồ ngọt và vệ sinh răng miệng 77

3.24 Đi khám chữa răng bác sĩ lần gần đây nhất (n=1022) 78

3.25 Mối liên quan giữa kiến thức và tình trạng vệ sinh răng miệng 78

3.26 Liên quan giữa số lần thực hành đánh răng trong ngày và tình trạng vệ sinh

răng miệng 79

3.27 Liên quan giữa tình trạng vệ sinh răng miệng và sâu răng vĩnh viễn

79

3.28 Liên quan giữa tình trạng vệ sinh răng miệng và viêm lợi 80

3.39

3.30

Chỉ số mảng bám PI ở hai nhóm học sinh 80

Số học sinh có cặn bám ở hai nhóm nghiên cứu 81

3.31 Số học sinh có cao răng ở hai nhóm nghiên cứu 82

3.32 Chỉ số OHI-S ở hai nhóm học sinh 83

3.33 Vệ sinh răng miệng chung ở hai nhóm học sinh 84

3.34 Chỉ số SMT ở hai nhóm học sinh 85

3.35 Số học sinh viêm lợi ở hai nhóm học sinh 85

3.36 Chỉ số CPITN ở hai nhóm học sinh 86

3.37 Số HS có ≥ 3 vùng lục phân lành mạnh ở hai nhóm nghiên cứu 87

3.38 Điểm trung bình về kiến thức CSRM của hai nhóm học sinh 87

3.39 Thái độ của hai nhóm học sinh về chăm sóc răng miệng 89

3.40 Thực hành vệ sinh răng miệng hàng ngày của hai nhóm học sinh 91

3.41 Thực hành phương pháp chải răng của hai nhóm học sinh 92

3.42 Thời gian chải răng và thời gian thay bàn chải của hai nhóm học sinh

93

3.43 ¡n, uống các loại đồ ngọt và chăm sóc răng miệng sau khi ăn uống các loại

đồ ngọt của hai nhóm học sinh 94


3.44

Đi khám chữa răng bác sĩ lần gần đây nhất của hai nhóm học sinh

95


DANH MỤC HÌNH


Hình

Nội Dung

Trang

1.1

Các giai đoạn hình thành Biofilm

5

1.2

Sơ đồ cơ chế bệnh sinh sâu răng của Fejerskov và Manji

11

1.3

Sự hủy khoáng

12

1.4

Sự tái khoáng

12

1.5

Khuynh hướng phát triển của bệnh sâu răng

23

2.1

Lựa chọn răng và đánh giá chỉ số DI-S theo các mức độ

54

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.


DANH MỤC SƠ ĐỒ


Hình

Nội Dung

Trang

2.1

Chọn mẫu và tổ chức nghiên cứu can thiệp

41


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ

Nội Dung


Trang

3.1

Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở học sinh nghiên cứu (theo huyện)

63


3.2

Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở học sinh nam và nữ

64


3.4

Tỷ lệ học sinh nam và nữ có ≥ 3 vùng lục phân lành mạnh


67

3.4

Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở hai nhóm học sinh


84

ĐẶT VẤN ĐỀ


Sâu răng, viêm lợi là hai bệnh rất phổ biến trong các bệnh răng miệng (RM) trên thế giới cũng như ở nước ta. Năm 1986, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã coi bệnh răng miệng là mối quan tâm lớn thứ ba của loài người sau bệnh ung thư và bệnh tim mạch.

Bệnh mắc rất sớm, ngay từ khi răng mới mọc (6 tháng tuổi). Nếu không được điều trị kịp thời bệnh gây biến chứng tại chỗ và toàn thân, ảnh hưởng đến sự phát triển về thể lực và thẩm mỹ của trẻ sau này. Do tính chất phổ biến và tỷ lệ mắc bệnh cao trong cộng đồng nên chi phí cho chữa trị, phục hồi chức năng nhai và thẩm mỹ rất lớn.

Trong 20 năm trở lại đây, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, người ta đã tìm ra nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của bệnh răng miệng là do mảng bám răng. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp phòng bệnh thích hợp và kết quả là sau khi áp dụng các biện pháp phòng bệnh hữu hiệu này, bệnh răng miệng đã giảm rõ rệt [81], [82], [119]. Phòng bệnh răng miệng là quá trình tương đối đơn giản, không quá khó khăn, không đòi hỏi trang bị đắt tiền, không đòi hỏi cán bộ kỹ thuật có chuyên môn cao và chi phí thấp, dễ thực hiện ở cộng đồng, đặc biệt là ở các trường học.

Việt Nam là nước đang phát triển, những năm gần đây, do điều kiện kinh tế, xã hội phát triển, chế độ dinh dưỡng có nhiều thay đổi như sử dụng nhiều đường, sữa...trong khi cộng đồng còn chưa nhận thức đầy đủ về nguy cơ, tác hại cũng như việc phòng tránh bệnh răng miệng. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy tại nhiều địa phương bệnh răng miệng có xu hướng ngày càng tăng [36], [37]. Năm 2001 theo kết quả điều tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc có trên 90% dân số mắc bệnh răng miệng, trong khi hoạt động của mạng lưới phòng chống bệnh răng miệng còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy hiện nay công tác phòng chống bệnh răng miệng là nhiệm vụ trọng tâm của ngành răng hàm mặt.

Để giải quyết tình trạng này, ngành răng hàm mặt nhiều năm qua đã thực hiện tích cực nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ răng miệng ban đầu mà trọng tâm là công tác nha học đường (NHĐ) với 4 nội dung: Giáo dục nha khoa cho học sinh, dùng nước súc miệng có flour 0,2% hàng tuần tại trường học, trám bít hố rãnh, khám phát hiện và điều trị sớm các bệnh răng miệng tại trường học. Tuy nhiên việc thực hiện và hiệu quả của công tác này có khác nhau ở từng địa phương, từng thời gian, một phần nguyên nhân là do kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc răng miệng của học sinh khác nhau ở từng lứa tuổi, từng nơi.

Ở Hà Nội, kết quả điều tra sức khỏe răng miệng năm 2007 - 2008 ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở cho thấy tỷ lệ bệnh răng miệng ngày càng tăng theo lứa tuổi. Trong những năm qua chương trình nha học đường của khu vực Hà Nội đã bước đầu có hiệu quả và các hoạt động đi vào nề nếp, tuy nhiên chất lựơng chưa đồng đều giữa các trường. Gia Lâm là một huyện ngoại thành của Hà Nội đã triển khai chương trình nha học đường nhưng hiệu quả hoạt động còn chưa cao nên bệnh răng miệng của học sinh vẫn phổ biến. Năm 2008, Hà nội đã được mở rộng cả về diện tích và dân số thêm 15 quận huyện mới, qua khảo sát khu vực Hà Tây trước đây, các trường chưa triển khai hoạt động nha học đường. Quốc Oai là một huyện ngoại thành của Hà Tây, do việc phòng và chữa bệnh RM chưa được quan tâm đúng mức vì vậy bệnh răng miệng rất phổ biến.

Để đẩy mạnh chương trình nha học đường, cũng như tìm những biện pháp mới kết hợp với chương trình nha học đường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phòng bệnh răng miệng cho học sinh, trong khuôn khổ của dự án “Đánh giá hiệu quả hoạt động Nha Học Đường tại Hà Nội năm 2009 – 2010 của viện Răng Hàm Mặt Quốc gia”, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kiểm soát mảng bám răng trong dự phòng sâu răng, viêm lợi ở học sinh 12 tuổi tại một số trường ở ngoại thành Hà Nội” nhằm mục tiêu:

1. Mô tả thực trạng, một số yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng, viêm lợi, mảng bám răng và kiến thức, thái độ, thực hành về chăm sóc răng miệng ở học sinh 12 tuổi tại một số trường trung học cơ sở huyện Gia Lâm, huyện Quốc Oai thành phố Hà Nội năm 2009.

2. Đánh giá hiệu quả kiểm soát mảng bám răng trong dự phòng sâu răng, viêm lợi của học sinh 12 tuổi tại 4 trường trung học cơ sở của 2 huyện nghiên cứu.


Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Những hiểu biết về mảng bám răng, bệnh sâu răng, viêm lợi và kiến thức, thái độ, thực hành của học sinh về chăm sóc răng miệng.

1.1.1. Một số khái niệm, định nghĩa liên quan đến bệnh răng miệng của chuyên ngành Răng Hàm Mặt [9].

- Bệnh RM: Là các bệnh về tổ chức cứng của răng (sâu răng), tổ chức quanh răng và niêm mạc miệng (viêm lợi, viêm quanh răng). Trong đó hai bệnh thường găp là bệnh sâu răng và bệnh viêm quanh răng (ở lứa tuổi học sinh là bệnh viêm lợi).

- Chỉ số sâu mất trám răng vĩnh viễn (SMT) là số răng sâu, răng mất, răng

trám (hàn) trung bình ở mỗi cá thể trong cộng đồng.

Chỉ số này được WHO sử dụng làm chỉ số đánh giá tình trạng sâu răng của mỗi nước, mỗi khu vực hay toàn cầu và cũng dùng để đề ra mục tiêu phòng chống bệnh sâu răng.

- Chỉ số nhu cầu điều trị quanh răng của cộng đồng (CPITN) có các mức chỉ

mức độ của viêm quanh răng được dùng để đánh giá là:

Chảy máu lợi (CPITN 1), cao răng (CPITN 2), túi lợi (CPITN 3).....

1.1.2. Những hiểu biết hiện nay về mảng bảm răng

1.1.2.1. Sự hình thành và cấu trúc mảng bám răng

Mảng bám răng (Dental Plaque) hay gọi là màng sinh học (biofilm) là một quần thể các vi khuẩn sống trong những cấu trúc có tổ chức ở giao diện giữa một mặt cứng và chất lỏng tồn tại trên bề mặt răng [74], [83], [100].


Vi khuẩn trong mảng bám răng (MBR) sống thành từng vi cụm nằm gọn trong một khuôn các chất polymer ngoại bào. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu sinh học phân tử trong đó có kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) đã phát hiện tới 500 loài vi khuẩn khác nhau có trong mảng bám răng [71].

Nhìn chung MBR có các tính chất sau:

- Bảo vệ cơ thể vi sinh vật khỏi hệ thống phòng vệ của chính vật chủ hay

của vi sinh vật đối kháng. Chống lại sự mất nước.

- Chống lại các chất kháng khuẩn thông qua việc tạo kiểu hình mới có tốc độ sinh trưởng giảm, hạn chế sự tiếp xúc và có khả năng bất hoạt hay trung hoà các chất kháng khuẩn.

- Nồng độ các chất dinh dưỡng trong MBR tăng cao hơn so với môi trường xung quanh. Những đặc điểm này mà các vi sinh vật sống trên MBR thường có khả năng chống chịu cao với các chất kháng khuẩn so với tế bào vi khuẩn sống tự do trong môi trường nuôi cấy. Độ chống chịu có thể cao gấp 1000 lần [31], [129].

Sự hình thành MBR bao gồm 3 giai đoạn chính [102], [103], [110].


Kháng sinh Kháng th ể Màng sinh học tế bào Tế bào vi khu ẩ n Enzym thựcbào Hình 1

Kháng sinh Kháng th ể Màng sinh học tế bào Tế bào vi khu ẩ n Enzym thựcbào Hình 2Kháng sinh

Kháng th

Màng sinh học tế bào Tế bào vi khu ẩ n Enzym thựcbào Hình 1 1 Các giai đoạn 4Màng sinh học tế bào Tế bào vi khun

Enzym thựcbào Hình 1 1 Các giai đoạn hình thành MBR Giai đoạn mở đầu a Vi 6Enzym thựcbào


Hình 1.1: Các giai đoạn hình thành MBR


- Giai đoạn mở đầu: (a)

Vi khuẩn bắt đầu bám vào bề mặt răng. Các mối tương tác đặc hiệu và không đặc hiệu giữa bề mặt răng và tế bào xuất hiện dẫn đến sự tạo liên kết và sự xâm chiếm dần dần.

- Giai đoạn bùng nổ tăng trưởng: (b)

Hình thành MBR đồng thời với sự sinh tổng hợp Polymer ngoại bào.

- Giai đoạn mất đi các tế bào trên mảng bám răng vào nước bọt: (c,d)

Thúc đẩy sự xâm nhập của các cơ thể vi sinh vật mới vào vị trí vừa được giải

phóng trên mảng bám răng.

Từ những hiểu biết mới về mảng bám răng, Marsh đưa ra quan niệm mới về mảng bám răng: Mảng bám răng được xem như là màng sinh học trong đó cộng đồng các vi khuẩn bám dính trên bề mặt răng được bao phủ bởi một khuôn polymer ngoại bào của ký chủ hay vi khuẩn [57], [103].

Khả năng gây sâu răng của mảng bám phụ thuộc độ dính của chúng vào răng, khả năng sinh acid từ đường C12 và C6 (các acid lactic, formic và acid khác) và pH của môi trường miệng [23].

Cùng với các điều kiện môi trường trong khoang miệng, vị trí thuận lợi cho mảng bám trên bề mặt răng (rãnh, núm, mặt nhai, mặt kẽ bên) cũng là nguyên nhân gây nên sự mất cân bằng sinh lý giữa răng và MBR dẫn đến mất khoáng của răng. Ở vị trí lỗ sâu, các đặc tính chuyển hoá và lan truyền của màng sinh học khác biệt đáng kể so với màng sinh học bao quanh các mặt răng lành mạnh hoặc các mặt sâu răng không hoạt động [110], [114].

Mảng bám răng hình thành trên bề mặt thân răng ngay sau khi ăn, nó có nguồn gốc từ nước bọt do men Carboxydase hay Neuramindase tác động lên axít Sialic của Muxin trong nước bọt làm cho nó kết tủa trên bề mặt răng. Sau đó các vi khuẩn xâm nhập, cố định và phát triển thành mảng bám vi khuẩn sau 2 giờ, ở

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/11/2022