Đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề và việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề tại một số tỉnh Bắc Bộ - 13

Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm phổ biến nghiên cứu, ứng dụng công nghệ xử lý môi trường phù hợp với làng nghề.

- Ở địa phương, giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở phân công, phân cấp hợp lý chỉ đạo quyết liệt các cấp chính quyền (trước hết là Ủy ban nhân dân cấp xã) trong hoạt động quản lý môi trường làng nghề; tiếp tục đẩy mạnh công tác hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về BVMT đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động tại các làng nghề và có hình thức xử lý cương quyết, triệt để, kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân đã và đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; xây dựng quy chế phối hợp giữa ngành môi trường và các ngành có liên quan khác ở địa phương (đặc biệt là ngành điện, công an, thuế…) để áp dụng các hình thức cưỡng chế, xử lý phù hợp đối với các cơ sở cố tình vi phạm các quy định của pháp luật (như cắt điện, cắt nước, khống chế ra/vào cơ sở…).

- Di dời triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nằm trong khu dân cư ra các khu, cụm công nghiệp tập trung hoặc tạm dừng hoạt động cho đến khi có biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn/quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về môi trường trước ngày 01 tháng 01 năm 2016. Công tác quy hoạch cần được triển khai theo hai hướng sau đây:

+ Quy hoạch các khu/cụm công nghiệp nhỏ để di dời các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi khu vực dân cư. Quy hoạch cần làm đồng bộ về hạ tầng cơ sở cũng như các hệ thống thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn; tiến hành ở những nơi có các điều kiện thuận lợi và ngành nghề phù hợp.

+ Quy hoạch tại chỗ: tập trung chủ yếu vào cải thiện điều kiện sản xuất và cải thiện về sinh môi trường, lưu giữ khung cảnh sản xuất, tính cổ truyền. Hình thức này thường thích hợp với các làng nghề cổ truyền thống, các làng nghề kết họp với dịch vụ du lịch.

Cũng có thể kết hợp cả hai loại hình quy hoạch tại một nơi. Vấn đề quyết định ở chỗ xác định được phương án quy hoạch phù hợp với loại ngành nghề, phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội và các yếu tố liên quan khác để bảo đảm tính hiệu quả cao.

- Tiếp tục phổ biến, hướng dẫn về sản xuất sạch hơn, áp dụng các công nghệ giảm thiểu môi trường; nhân rộng các mô hình thu gom và xử lý chất thải hiệu quả, phù hợp với điều kiện làng nghề.

- Tăng cường mạnh mẽ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, mà đặc biệt là Mặt trận tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Liên minh Hợp tác xã,

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh trong công tác kiểm tra, theo dòi, giám sát thực thi các quy định của pháp luật về BVMT. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào giám sát công tác BVMT bằng việc yêu cầu mỗi làng nghề phải có Hương ước, trong đó có các điều khoản cam kết BVMT để cùng thực hiện.

- Khuyến khích hình thành các Hiệp hội ngành nghề nông thôn, các tổ chức Hợp tác xã, Tổ tự quản về bảo vệ môi trường,… để tăng cường chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin, mở rộng thị trường, nắm bắt văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến tuyên truyền, thậm chí, đại diện cho quyền lợi của các hộ sản xuất để đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, bảo vệ bản quyền của các sản phẩm truyền thống (như rượu Mẫu Sơn của người dân tộc Dao hiện nay đã được một Công ty TNHH thu mua, ủ, đóng chai, tiêu thụ và đăng ký nhãn hiệu hàng hóa).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

- Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương xây dựng, hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể xử lý ô nhiễm môi trường môi làng nghề vào cuối năm 2011.

3.10.3. Nhóm giải pháp về nguồn lực

Đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề và việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề tại một số tỉnh Bắc Bộ - 13

- Bố trí cán bộ thuộc UBND cấp xã, đối với xã có làng nghề được công nhận, để hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện các quy định về BVMT tại làng nghề.

- Đa dạng hóa đầu tư tài chính cho BVMT làng nghề, bố trí đủ kinh phí để triển khai các nhiệm vụ, dự án theo đúng lộ trình đề xuất nhằm tạo sự chuyển biến cả về nhận thức, hành động cũng như cải thiện tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề.

- Có các biện pháp để bổ sung, tăng cường nguồn vốn hàng năm cho Quỹ BVMT Việt Nam; từng bước để đưa Quỹ BVMT Việt Nam trở thành một nguồn vốn quan trọng hàng đầu cho xử lý, khắc phục ô nhiễm môi trường ở những điểm, khu vực “nóng” và các làng nghề ở Việt Nam như kinh nghiệm một số nước trên thế giới.

- Tăng cường đào tạo, tập huấn, phổ biến kiến thức cho các cán bộ làm công tác quản lý môi trường làng nghề; giáo dục, truyền thông nâng cao nhận thức và trách nhiệm về BVMT và ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về môi trường trong cộng đồng tại các làng nghề.

- Tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình quản lý môi trường làng nghề tiên tiến theo nguyên tắc chung là gọn nhẹ, hiệu quả và hiệu lực, như hình thành các Tổ chức tự quản về BVMT do UBND cấp xã thành lập và ban hành quy chế hoạt động, kinh phí

một phần do xã chỉ trả, còn phần lớn do các hộ sản xuất phải có trách nhiệm đóng góp. Tùy từng địa phương, tùy từng loại sản xuất làng nghề mà có mô hình quản lý phù hợp, chú trọng vai trò và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể ở địa phương.


KẾT LUẬN

1. Cùng với thời gian và lịch sử phát triển của dân tộc, hoạt động sản xuất của các làng nghề ở Việt Nam ngày càng phát triển và mang tính truyền thống. Sự phát triển này đã trở thành một hình thức kết cấu kinh tế - xã hội của nông thôn Việt nam. Tính đến nay, trên phạm vi cả nước đã có tới 3.355 làng nghề truyền thống và làng có nghề.

2. Các làng nghề truyền thống và làng có nghề ở nước ta có sự phân bố không đều: tập trung nhiều nhất ở miền bắc, chiếm 60 – 70%. Trong đó, đồng bằng Sông Hồng khoảng 50%, tập trung ở Hà Tây cũ, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định; ở miền Trung khoảng 23,6% và miền Nam chiếm 16,4%.

3. Về loại hình sản xuất làng nghề nước ta cũng rất đa dạng, được phân thành 08 nhóm ngành nghề: Nhóm làng nghề thủ công mỹ nghệ: chiếm khoảng 37%; Nhóm làng nghề chế biến lương thức, thực phẩm: chiếm 24%; Nhóm làng nghề dệt, nhuộm, thuộc da: chiếm 5%; Nhóm làng nghề gia công cơ kim khí: chiếm 4%; Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng: chiếm 3%; Nhóm làng nghề chăn nuôi, giết mổ gia súc: chiếm 1%; Nhóm làng nghề tái chế chất thải: chiếm 1%; Nhóm các loại hình làng nghề khác: chiếm 24%.

4. Các làng nghề nước ta vẫn phát triển ồ ạt, thiếu định hướng, các làng có nghề phần lớn phát triển tự phát theo nhu cầu xã hội, theo lợi nhuận đang ngày càng mọc lên ở mọi miền thôn quê. Chính các làng có nghề này đang trở thành đối tượng gây ôn nhiễm môi trường khá nghiêm trọng và tác động mạnh tới môi trường và sức khỏe cộng đồng. Tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề có xu hướng ngày càng gia tăng và có tính trầm trọng hơn.

5. Các quy định về BVMT còn “đứng ngoài” làng nghề, dẫn đến, môi trường làng nghề ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng tới đời sống, sức khỏe của người dân nông thôn không chỉ trong khu vực sản xuất mà còn cả những vùng lân cận, thậm chí nhiều nơi, xung đột do ô nhiễm môi trường đã nảy sinh, khiến đời sống xã hội nông thôn bị xáo trộn nghiêm trọng.

6. Phân công chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo giữa các ngành, địa phương; dẫn tới sự ỷ lại giữa các cấp chính quyền, và sự đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan tham mưu trong cùng một cấp. Bên cạnh đó, nguồn lực con người, kinh phí, trang thiết bị còn bị phân tán, dẫn tới hiệu quả thực sự hạn chế.

7. Các chính sách, đặc biệt là các chính sách về ưu đãi, hỗ trợ còn chưa sát, mang tính chất hình thức, chưa triển khai áp dụng được đối với các đối tượng trong làng nghề. Văn bản quy phạm pháp luật còn xa rời thực tế, công tác triển khai các công cụ quản lý BVMT tại làng nghề còn nhiều yếu kém; nhân lực và tài chính cho BVMT còn thiếu; công tác xã hội hóa BVMT làng nghề chưa được triển khai cụ thể, chưa huy động được nguồn lực cho BVMT làng nghề.

8. Công tác quy hoạch các khu/CCN tập trung cho làng nghề còn nhiều vấn đề tồn tại và bất cập. Hầu hết các khu/CCN làng nghề chưa có quy chế BVMT rò ràng, phân lớn vẫn trong tình trạng chuyển cơ sở gây ô nhiễm từ làng truyền thống vào khu/CCN; Tại 1 số khu/cụm, các hộ sản xuất không chỉ di chuyển bộ phận sản xuất mà di chuyển cả gia đình; nhiều khu/CCN không có hệ thống xử lý nước thải tập trung, hệ thống thu gom và xử lý chất thải rắn…

9. Để làm tốt công tác BVMT làng nghề, trong giai đoạn 2012 - 2015 cần đổi mới và tăng cường mạnh mẽ công tác BVMT trong quản lý và phát triển làng nghề trên phạm vi toàn quốc. Áp dụng đồng bộ các giải pháp ngăn chặn, xóa bỏ các loại hình làng nghề chá hình và từng bước cải thiện căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn một cách bền vững. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án BVMT làng nghề Việt Nam giai đoạn 2012 - 2015 và tầm nhìn đến 2015 đã được dự thảo và đề xuất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ TN&MT, 2008, Báo cáo môi trường quốc gia 2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam.

2. Bộ TN&MT, 2009, Báo cáo môi trường quốc gia 2009 – Môi trường khu công nghiệp Việt Nam.

3. Bộ TN&MT, 2010, Báo cáo môi trường quốc gia 2010 – Tổng quan môi trường Việt Nam.

4. Bộ TN&MT, 2011, Báo cáo môi trường quốc gia 2011 – Chất thải rắn.

5. Bộ TN&MT, 10/2012, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

6. Bộ TN&MT, 12/2006, Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ: Điều tra, khảo sát phục vụ việc xây dựng dự án kiểm soát ô nhiễm các làng nghề 2006.

7. Bộ NN và PTNT, Đánh giá hiện trạng các ngành nghề phi nông nghiệp và định hướng phát triển đến năm 2010.

8. Bộ NN và PTNT, 1999, Ngành nghề nông thôn Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Bộ NN và PTNT, JICA, Nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công phục vụ công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam từ năm 2002 đến năm 2004

10. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, 2011, Báo cáo tình hình bảo vệ môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề.

11. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, 2011, Báo cáo tình hình bảo vệ môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề.

12. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, 2011, Báo cáo tình hình bảo vệ môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề.

13. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, 2011, Báo cáo tình hình bảo vệ môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề.

14. Đặng Kim Chi, 4/2005, Làng nghề Việt Nam và vấn đề môi trường. Báo cáo tại Hội nghị môi trường toàn quốc 4/2005.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/06/2022