Số Lượng Tinh Cọng Rạ Sản Xuất Được Trong Một Lần Lấy Tinh Đạt Tiêu Chuẩn Của Từng Bò Đực Giống‌

từng bò đực giống HF có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Bảng 3.12. Số lượng tinh cọng rạ sản xuất được trong một lần lấy tinh đạt tiêu chuẩn của từng bò đực giống‌

Số lượng tinh cọng rạ/lần lấy tinh đạt TC đưa vào sử

SH bò đực giống

dụng (cọng rạ)



n

Mean

SE

291

31

329,42a

7,92

292

68

273,41b

3,88

293

33

256,21ab

7,72

294

11

174,27f

8,05

295

56

236,20cd

5,34

296

74

204,59e

4,38

297

67

251,52bcd

4,64

298

65

228,14cde

5,70

2101

19

133,89g

5,61

2102

38

203,50e

4,62

2103

34

207,24e

4,86

2104

32

223,47ed

4,57

Trung bình

528

234,28

2,86

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

Đánh giá chọn lọc bò đực giống Holstein Friesian ở Việt Nam - Phạm Văn Tiềm - 14

Ghi chú: Trong cùng một cột, những giá trị trung bình có chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Trong số

10 bò đực giống HF đánh giá khả

năng sản xuất tinh

đông lạnh cho thấy có 2 bò đực giống HF số hiệu (294 và 2101) khả

năng sản xuất tinh kém, tỷ lệ lần khai thác đạt tiêu chuẩn sản xuất tinh

đưa vào sử

dụng chỉ từ

11% đến 19%, tương

ứng chỉ

đạt 1.918 cọng

rạ/con/năm đến 2.544 cọng rạ/con/năm. Những bò đực giống còn lại đều có khả năng sản xuất >7.000 cọng rạ/con/năm.

Như vậy, qua đánh giá khả năng sản xuất tinh đông lạnh của 12 bò đực giống HF đã đạt tiêu chuẩn sinh trưởng phát triển, có 02 bò đực

giống mang số

hiệu 294 và 2101 khả

năng sản xuất tinh kém (<7.000

cọng rạ/con/năm) không đạt tiêu chí sản xuất tinh đông lạnh nên loại bỏ.

10 bò đực giống còn lại (291, 292, 293, 295, 296, 297, 298, 2102, 2103,

2104) có khả năng sản xuất tinh tốt (>7.000 cọng rạ/con/năm), được

đánh giá chọn lọc thông qua sản lượng sữa đàn chị em gái. Kết quả này đáp ứng với Quyết định 675/QĐ­BNN­CN (Bộ Nông Nghiệp và PTNT, 2014) về yêu cầu bò đực giống gốc sản xuất tinh đông lạnh đạt ≥7.000 liều/con/năm.

3.2.3. Hiệu quả của tuyển chọn bò đực giống thông qua bản thân

Theo di truyền học, mỗi cá thể bố và mẹ đều truyền 50% nguồn gen của chính mình cho từng cá thể của thế hệ sau (Lê Văn Thông và cs., 2012). Vì vậy, để đánh giá tiềm năng sữa của bò đực giống có thể dựa vào tiềm năng sữa của bò bố đực giống và sản lượng sữa của bò mẹ đực giống.

Từ 15 bò đực giống HF được đưa vào đánh giá bản thân đã chọn

được 10 bò đực giống có khả năng sinh trưởng phát triển và sản xuất

tinh tốt nhất. Để thấy rõ hiệu quả của bước chọn bò đực giống thông

qua bản thân của

phương pháp

kiểm tra đực giống qua đời sau, tiềm

năng sữa của từng bò đực giống sau khi kết thúc bước chọn này mà chủ

yếu dựa vào sinh trưởng và khả trình bày tại bảng 3.13.

năng sản xuất tinh được xác định và

Bảng 3.13. Tiềm năng sữa của bò đực giống Holstein Friesian đánh giá qua bản thân‌

Các bước kiểm tra đực giống

Chỉ tiêu

Chọn bò đực giống thông qua đời trước

Chọn bò đực giống thông qua bản thân

So sánh chọn bản thân/đời trước (%)

Số bò đực giống HF chọn

15 10 66,67

được qua các bước kiểm tra



TNS trung bình của bò bố

13.047,07 13.018,70 99,78

đực giống (kg/chu kỳ)

SLS trung bình của bò mẹ đực giống (kg/chu kỳ) TNS trung bình của bò đực giống kiểm tra (kg/chu kỳ)

7.448,27 7.614,30 102,23


10.247,67 10.316,50 100,67

Kết quả

trình bày tại bảng 3.13 cho thấy: So với kết quả

bước

tuyển chọn thông qua đánh giá đời trước của 15 bò đực giống HF có tiềm năng sữa trung bình là 10.247,67 kg/chu kỳ; thì kết thúc bước kiểm tra bản thân, chủ yếu chọn về khả năng sinh trưởng phát triển và sản xuất tinh đông lạnh, đã chọn được 10 bò đực HF đạt các tiêu chuẩn quy định về giống, có tiềm năng sữa trung bình 10.316,50 kg/chu kỳ. Tiềm năng sữa của 10 bò đực giống được tuyển chọn thông qua bản thân cao hơn so với 15 bò đực giống được tuyển chọn thông qua đời trước là 68,83 kg/chu kỳ, làm tăng 0,67%.

Như vậy,

kết quả kiểm tra bản thân

thông qua đánh giá khả năng

sinh trưởng phát triển và sản xuất tinh của 15 bò đực giống HF đã tuyển chọn được 10 cá thể bò đực giống tốt nhất chiếm 66,67%, có tiềm năng sữa cao hơn trung bình đàn được kiểm tra đánh giá thông qua bản thân 0,67%. 10 bò đực giống này được tiếp tục đưa vào bước kiểm tra chọn lọc bò đực giống bằng giá trị giống về tiềm năng sữa thông qua sản lượng sữa đàn chị em gái của qui trình kiểm tra bò đực giống HF qua đời sau.

3.3. CHỌN LỌC BÒ ĐỰC GIỐNG HOLSTEIN FRIESIAN BẰNG GIÁ TRỊ GIỐNG ƯỚC TÍNH VỀ TIỀM NĂNG SỮA THÔNG QUA SẢN LƯỢNG SỮA LỨA ĐẦU CỦA ĐÀN CHỊ EM GÁI

3.3.1. Sản lượng sữa 305 ngày và sữa tiêu chuẩn lứa đầu của đàn bò chị em gái

Sản lượng sữa chu kỳ 305 ngày là một trong những chỉ tiêu kinh tế quan trọng nhất của ngành chăn nuôi bò sữa thể hiện chất lượng giống và hiệu quả của quá trình chăn nuôi bò sữa. Nhằm chọn lọc được những bò đực giống có tiềm năng sữa cao, thông qua sản lượng sữa đàn chị em gái để cải tạo đàn bò sữa Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên

2 khía cạnh: sản lượng sữa thực tế và sữa tiêu chuẩn 4% mỡ sữa của

đàn bò chị em gái cùng cha khác mẹ của 10 bò đực giống HF từ 4 bò bố

có nguồn gốc từ

Hoa kỳ. Kết quả

về sản lượng sữa thường và sản

lượng sữa tiêu chuẩn 4% mỡ sữa được trình bày ở bảng 3.14.

Bảng 3.14. Sản lượng sữa 305 ngày và sản lượng sữa tiêu chuẩn lứa đầu đàn bò chị em gái của các bò đực giống Holstein Friesian‌


SH bố các bò

SH bò đực giống

số SLS chu kỳ đầu của đàn CEG (kg/chu bò k305 ngày)

đực giống


RUANN CELSIUS MOTTO­2087­ET RUANN VINCER

NOMAD 2728­ET

COOKS VALLEY AMEL BUCK­ ET

kiểm tra

(con)

Mean

SE

Mean

SE

160

4.516,13a

50,91

4.261,53a

46,60

45

5.198,20b

96,00

4.879,74b

87,87

135

5.091,86b

55,43

4.754,32b

50,73

291, 2102,

2103, 2104

292

293, 295,

296

CEG SLS 305 ngày SLS tiêu chuẩn




RALMA TERRY

297, 298 80 5.257,60b 72,00 4.875,39b 65,90

FLEET­ET

Trung bình 420 4.915,50 35,00 4.603,10 31,60

Ghi chú: Trong cùng một cột, những giá trị trung bình có chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Sản lượng sữa 305 ngày của lứa sữa đầu trên đàn chị gái cùng cha khác mẹ của 10 bò đực giống HF trung bình là 4.915,50 kg/chu kỳ; cao

nhất là đàn chị em gái của 2 bò đực giống 297 và 298, đạt 5.257,60

kg/chu kỳ; thấp nhất là đàn chị em gái của nhóm đực mang số hiệu 291,

2102, 2103 và 2104 là 4.516,13 kg/chu kỳ.

Sự sai khác giữa giá trị trung bình về sản lượng sữa 305 ngày lứa đầu của đàn chị em gái của các bò đực giống 291, 2102, 2103 và 2104 với các đàn bò chị em gái của các đực giống còn lại có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Sản lượng sữa 305 ngày lứa đầu của đàn bò chị em gái của các bò đực giống 292, 293, 295, 296, 297 và 298 tuy có khác nhau, song sự sai khác giữa các giá trị trung bình không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Theo Đinh văn Cải (2009), sản lượng sữa của bò HF nuôi tại Công ty Giống bò sữa Đức Trọng, Lâm Đồng giai đoạn (1991­1993) là 3.946 ­ 4.483 kg/chu kỳ; Phạm Thế Huệ và Trần Quang Hân (2003), nghiên cứu trên đàn bò HF nuôi tại Đắc Lắc công bố sản lượng sữa là 3.165 kg/chu kỳ.

Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Thanh Bình (2005), nghiên cứu về sức sản xuất sữa của bò HF ở lứa sữa đầu tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết sản lượng sữa của giống bò HF là 3.348 kg/chu kỳ.

Nguyễn Hữu Lương và cs. (2006) cho biết, sản lượng sữa lứa đầu của bò HF nhập từ Australia nuôi tại Mộc Châu là 4.365 kg/chu kỳ.

Nguyễn Xuân Trạch và Phạm Phi Long (2008), nghiên cứu về sức sản xuất sữa của bò HF nuôi tại Lâm Đồng cho biết sản lượng sữa chu kỳ 305 ngày lứa sữa thứ nhất nuôi ở nông hộ đạt 4.268,49 lít và nuôi tập trung đạt 4.171,89 lít.

Nghiên cứu của Phạm Văn Giới và cs. (2008) trên đàn bò HF nuôi tại Mộc Châu và Tuyên Quang về sức sản xuất sữa chu kỳ đầu cho biết,

sản lượng sữa trung bình đàn con gái của nguồn bố là châu Mỹ­Âu là

4.868,71 kg/con/chu kỳ và châu Úc là 4.753,17 kg/con/chu kỳ.

Đặng Đình Trung và cs. (2013), nghiên cứu khả năng sản xuất sữa trên đàn HF nhân giống nuôi tại Tuyên Quang cho biết sản lượng sữa chu

kỳ sữa đầu là 4.945 kg/chu kỳ.

Lê Văn Thông và cs. (2013), nghiên cứu sản lượng sữa lứa đầu của đàn bò HF sinh ra từ những đực giống có nguồn gốc Cu Ba và Hoa Kỳ tại Mộc Châu và Đức Trọng công bố sản lượng sữa giao động từ 4.431 kg/chu kỳ đến 5.103 kg/chu kỳ.

Phân tích về khả năng cho sữa ở lứa đầu cho thấy, kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Đặng Đình Trung và cs. (2013), Lê Văn Thông và cs. (2013). Kết quả này cao hơn nghiên cứu của các tác giả Đinh văn Cải (2009), Phạm Thế Huệ và Trần Quang

Hân (2003), Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Thanh Bình (2005), Nguyễn

Hữu Lương và cs. (2006), Nguyễn Xuân Trạch và Phạm Phi Long (2008), Phạm Văn Giới và cs. (2008). Sở dĩ có kết cao như vậy là do đàn bò HF trong nghiên cứu này được sinh ra từ những bò bố là đực giống được tuyển chọn từ Hoa Kỳ có tiềm năng sữa rất cao và công tác chọn lọc nâng cao chất lượng giống trong những năm gần đây được quan tâm, chất lượng thức ăn cũng được đầu tư tốt, do vậy sản lượng sữa cao hơn hẳn những năm trước đây. Kết quả ở nghiên cứu này khẳng định đàn bò chị em gái của những đực giống đang kiểm tra này có sản lượng sữa cao. Trên thế giới, sản lượng sữa của bò HF được nghiên cứu nhiều ở

lứa sữa đầu: Ojango và Pollott (2001) công bố, bò HF nuôi ở Kenya là

4.557 kg/chu kỳ; Safi Jahanshahi và cs. (2002) cho biết bò HF nuôi ở Iran là 5.943 kg/chu kỳ; Bethany (2004) công bố, bò nuôi tại Ontario Canada là

7.046 kg/chu kỳ.

Sản lượng sữa trung bình của đàn bò sữa trong nghiên cứu này cao hơn so với sản lượng sữa đàn bò sữa HF nuôi ở Kenya (Ojango và Pollott, 2001) có thể do Kenya có nhiệt độ môi trường cao hơn so với nhiệt độ

môi trường tại Mộc Châu và Đức Trọng dẫn đến sản lượng sữa thấp hơn. Song, sản lượng sữa của đàn bò HF này thấp hơn so với sản lượng sữa bò HF tại Iran và Canada vì Iran và Canada có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển, công tác tạo, chọn giống được quan tâm, đầu tư, chọn lọc và được thực hiện từ lâu nên đàn bò sữa HF có chất lượng tốt hơn đàn bò HF Việt Nam. Hơn nữa, các nước này có thời tiết khí hậu môi trường cũng mát mẻ hơn ở Việt Nam, phù hợp với bò sữa HF.

Sữa tiêu chuẩn là sản lượng sữa được quy đổi về 4% mỡ sữa. Vì

vậy, sản lượng sữa tiêu chuẩn phản ánh được bản chất về tiềm năng

cho sữa và chất lượng sữa của từng cá thể bò đực giống. Qua bảng 3.14 cho thấy sản lượng sữa tiêu chuẩn của đàn bò chị em gái đạt trung bình 4.603,10 kg/chu kỳ, cao nhất là 4.879,74 kg/chu kỳ, thấp nhất là 4.261,53 kg/chu kỳ. Sự sai khác về giá trị trung bình sản lượng sữa tiêu chuẩn lứa đầu của đàn bò chị em gái giữa các bò đực giống 291, 2102, 2103 và 2104 với các bò còn lại có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Sản lượng sữa tiêu chuẩn có quan hệ chặt chẽ với sản lượng sữa thường và tỷ lệ mỡ sữa. Nếu cùng sản lượng sữa thường nhưng tỷ lệ mỡ

sữa khác nhau thì

sản lượng sữa

tiêu chuẩn khác nhau. Qua kết quả

nghiên cứu trình bày trong bảng 3.14 cho thấy rằng, sản lượng sữa

thường của đàn bò chị em gái đực giống 297 và 298 cao hơn đàn bò chị em gái bò đực giống 292, nhưng tỷ mỡ sữa của bò chị em gái đực giống 292 cao hơn tỷ lệ mỡ sữa của đàn chị em gái em gái đực giống 297 và 298 nên sản lượng sữa tiêu chuẩn của đực giống 292 cao hơn 297 và 298.

3.3.2. Chất lượng sữa lứa đầu của đàn bò chị em gái


Để đánh giá chất lượng sữa người ta quan tâm đến nhiều yếu tố

khác nhau: các yếu tố về cảm quan như màu sắc, mùi vị, tỷ trọng, độ chua

…; các thành phần có trong sữa như: Lipit, Protein, lactoza, khoáng, vitamin,

... song hai thành phần quan trọng nhất là

tỷ lệ mỡ sữa

và tỷ

lệ protein

sữa. Vì vậy, trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi chỉ phân tích đánh giá tỷ lệ mỡ sữa và tỷ lệ protein sữa trong chu kỳ sữa 305 ngày lứa sữa đầu.

Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi được trình bày ở bảng 3.15 cho thấy tỷ lệ mỡ sữa ở chu kỳ sữa đầu của đàn bò HF chị em gái đạt trung bình 3,58%, cao nhất đạt 3,63% và thấp nhất là 3,52%. Sự sai khác về giá trị trung bình tỷ lệ mỡ sữa của đàn bò chị em gái giữa các bò đực giống có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Nguyễn Văn Kiệm (2000) cho biết, tỷ lệ mỡ sữa của bò HF nuôi tại Mộc Châu là 3,32%; Đỗ Kim Tuyên và Bùi Duy Minh (2004) cho biết, tỷ lệ mỡ sữa của bò HF nuôi tại Mộc Châu (1998­2002) là 3,28­3,39%; Nguyễn Hữu Lương và cs. (2006) cho biết, tỷ lệ mỡ sữa của bò HF nhập

từ Australia nuôi tại Mộc Châu (2002­2005) là 3,42%; Nguyễn Đăng

Vang và cs. (2006), đàn bò HF nhập từ Mỹ nuôi tại Mộc Châu giai đoạn (2001­2006), có tỷ lệ mỡ sữa là 3,30 ± 0,76% và tại Lâm Đồng là 3,41 ± 0,85%. Theo số liệu điều tra của Trần Quang Hạnh (2010), trên đàn bò HF nuôi tại Lâm Đồng có tỷ lệ mỡ sữa lứa đầu là 3,32 ± 0,03%.

Như

vậy,

tỷ lệ mỡ

sữa

đàn chị

em gái của những bò đực giống

trong nghiên cứu này cao hơn so với kết quả của các tác giả cùng nghiên cứu trên bò HF tại Mộc Châu và Lâm Đồng. Kết quả này được giải thích như sau: ngoài yếu tố di truyền do đàn bò liên tục được chọn lọc nâng cao chất lượng, thì những năm gần đây, các đơn vị nuôi bò sữa đã chú trọng đến cân đối khẩu phần thức ăn, đầu tư chế biến thức ăn tốt hơn, chất lượng thức ăn được nâng lên do vậy, tỷ lệ mỡ sữa được tăng lên.

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 10/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí