một hai lỗi nhỏ, điều này diễn ra nhiều lần đã tạo cho họ sự mệt mỏi [24, tr 10]. Thực tế những quy định của pháp luật hiện hành cũng đã chưa quy định cụ thể, chi tiết việc cán bộ kinh doanh phải hướng dẫn như thế nào cho doanh nghiệp đăng ký. Do đó, cán bộ ĐKKD vẫn hướng dẫn nhưng không hướng dẫn đầy đủ cũng không phải là vi phạm các quy định của pháp luật. Tôi cho rằng vấn đề không nằm ở việc các quy định của pháp luật không quy định, mà vấn đề chính ở đây đó là thái độ của các cán bộ ĐKKD đối với doanh nghiệp. Chẳng hạn như việc doanh nghiệp phải sửa đổi giấy chứng nhận ĐKKD do sự không thống nhất giữa ngôn từ chỉ cách hiểu các loại dây chuyền sản xuất và ngành nghề sử dụng trong quá trình kinh doanh diễn ra khá phổ biến. Tất cả những trường hợp nêu trên đây sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng nếu các cán bộ ĐKKD có tinh thần hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Trong những trường hợp pháp luật có quy định rõ ràng về thủ tục đã vậy, nhiều trường hợp pháp luật chưa quy định rõ về thủ tục khi tiến hành ĐKKD lại càng tạo nhiều khó khăn hơn cho các doanh nghiệp. Đó là các trường hợp chuyển đổi hình thức hoạt động của các DNNN đang hoạt động theo Luật DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH và công ty cổ phần và việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện tại đang hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo LDN năm 2005.
Đối với các DNNN việc chuyển đổi các công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 08-09-2006 của Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên. Tuy vậy, theo các quy định trong Nghị định này thì thẩm quyền tiến hành thủ tục ĐKKD đối với các công ty nêu trên chưa được quy định rõ. Mặt khác, các công ty nhà nước không thuộc các đối tượng nêu trong Nghị định sẽ được
chuyển đổi theo hướng nào, thẩm quyền và thủ tục ĐKKD đối với các công ty loại này hiện cũng chưa được quy định cụ thể.
Đối với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài, thì việc chuyển đổi tuy không bắt buộc nhưng theo các quy định của LDN năm 2005 cũng như các quy định hướng dẫn luật này lại khiến có doanh nghiệp không còn cách lựa chọn nào tốt hơn là nên đăng ký lại [34, tr 22].
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang tồn tại dưới bốn hình thức là: doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã ĐKKD theo các quy định trước đây của pháp luật về doanh nghiệp cũng như về đầu tư nay thực hiện ĐKKD lại hay chuyển đổi loại hình theo quy định của LDN năm 2005 hiện đang phải chịu những hạn chế không công bằng so với các DNNN và doanh nghiệp dân doanh trong nước. Nghị định 101/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thủ tục đăng ký lại và thủ tục chuyển đổi đối với các doanh nghiệp này tương đối hẹp đã hạn chế nhiều quyền lựa chọn của các doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở các quy định các doanh nghiệp này phải đăng ký lại theo những loại hình doanh nghiệp đã ấn định mà không có sự lựa chọn nào khác. Rồi sau đó mới được chuyển đổi sang những loại hình doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt đang hoạt động theo các luật khác Luật đầu tư như các công ty bảo hiểm, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa biết mình sẽ đăng ký lại như thế nào [34, tr 22].
Ngoài ra, về tên của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là một vấn đề cần phải được quy định rõ khi chuyển đổi vì nếu cứ giữ nguyên những tên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì sẽ có những tên doanh
Có thể bạn quan tâm!
- Ngành, Nghề Kinh Doanh Không Thuộc Lĩnh Vực Bị Cấm Kinh Doanh (Theo Danh Mục Những Ngành Nghề Cấm Kinh Doanh Do Chính Phủ Quy Định).
- Đăng Ký Kinh Doanh Kiểu Hành Doanh Nghiệp
- Thuế Môn Bài, Rào Cản Mới Đối Với Tinh Thần Kinh Doanh
- Những Nhân Tố Tác Động Tới Thực Trạng Pháp Luật Về Đăng Ký Kinh Doanh Ở Việt Nam Hiện Nay
- Từ Những Hạn Chế Của Pháp Luật Về Đăng Ký Kinh Doanh Đến Việc Hoàn Thiện Chính Sách Và Pháp Luật
- Kiến Nghị Về Giấy Phép Và Điều Kiện Kinh Doanh
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
nghiệp trái với quy định của LDN. Do đó, cần có những quy định cụ thể hướng dẫn về tên của doanh nghiệp cho thống nhất.
Thực tế ĐKKD trong cả nước hơn 6 năm qua cũng ghi nhận những sáng tạo về mặt thủ tục giúp thủ tục ĐKKD được thuận tiện, dễ dàng hơn, thời gian được rút ngắn hơn. Điển hình về sự sáng tạo đó là việc các Phòng ĐKKD đã triển khai việc ĐKKD trên mạng để nhận hồ sơ ĐKKD và thông báo tiến độ cũng như kết quả xử lý hồ sơ ĐKKD qua mạng. Chỉ khi nào việc ĐKKD thành công doanh nghiệp mới phải đến Phòng ĐKKD để lấy kết quả. Một số Phòng ĐKKD khác lại triển khai thủ tục ĐKKD một cửa cũng tạo nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ ĐKKD một cửa tại Phòng ĐKKD, các thủ tục khác về đăng ký khắc dấu và đăng ký mã số thuế, đăng ký mua hoá đơn sẽ được gửi đến các cơ quan hữu quan để tiến hành mà doanh nghiệp không phải trực tiếp đến nộp. Đến thời hạn, doanh nghiệp sẽ đến Phòng ĐKKD để nhận kết quả. Những quy định như vậy sẽ giúp ích cho các doanh nghiệp, khi không phải mất thời gian và công sức đến các cơ quan hữu quan để hoàn thiện thủ tục hồ sơ. Mặt khác, thực hiện tốt cơ chế này cũng làm giảm những tiêu cực phát sinh trong quá trình ĐKKD. Tuy nhiên, thực tế thực hiện cơ chế một cửa một cách máy móc, không khoa học tại một số tỉnh thành đã đem lại những hệ quả ngược [49, tr 13]. Một thực tế ghi nhân được qua một cuộc khảo sát là: nếu như quy chế một cửa được thực hiện khá tốt ở tỉnh Lào Cai, thì ngược lại, ở Đắk Lắk nhà đầu tư muốn ĐKKD sẽ đến phòng một cửa để nộp hồ sơ, sau đó người nhận hồ sơ sẽ lại chuyển hồ sơ về Phòng ĐKKD để xử lý; sau đó, nếu được cấp giấy chứng nhận ĐKKD nhà đầu tư sẽ đến nhận tại phòng một cửa; quy trình này thực chất đã tạo thêm một cửa nhận hồ sơ nữa trong thủ tục ĐKKD thực chất là trái với quy định của LDN và các quy định hướng dẫn thi hành. Như vậy, thủ tục một cửa nếu không
được thực hiện đúng với bản chất “một cửa, một dấu” sẽ rất dễ trở thành “một cửa – nhiều khoá”.
Có một điều chắc chắn đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn là thủ tục và luật lệ càng nhiều thì chi phí kinh doanh càng cao [38, tr 53]. Mặt khác, nhiều thủ tục thường mang lại kết quả ngược lại với mục tiêu đặt ra. Trong khi đó những người giầu sẵn sàng bỏ ra thêm những chi phí để có thể tránh được sự phức tạp của thủ tục, đồng thời ngăn cản những người khác ra nhập thị trường.
2.3.6. Về giấy phép và điều kiện kinh doanh
Điều kiện kinh doanh được hiểu là những yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh những ngành, nghề cụ thể được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc các yêu cầu khác (khoản 2 Điều 7 LDN năm 2005). Theo cách hiểu này thì giấy phép kinh doanh cũng chỉ là một hình thức biểu hiện của điều kiện kinh doanh và chỉ khác với điều kiện kinh doanh ở việc nó được thực hiện bằng cơ chế cấp phép thể hiện qua việc cấp cho chủ thể xin phép một loại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh một ngành, nghề nào đó. Điều kiện kinh doanh nói chung là những yêu cầu mà doanh nghiệp phải đáp ứng có thể là điều kiện phải được cấp phép hoặc có thể chỉ là điều kiện kinh doanh phải tuân thủ trong quá trình kinh doanh.
Trong thực tế thi hành LDN biểu hiện của điều kiện kinh doanh khá đa dạng và cũng là một trong những vấn đề gây nhiều bức xúc nhất cho các chủ thể khi ĐKKD. Hiện cả nước theo số liệu thống kê được gần 300 loại giấy phép kinh doanh ở tất cả các ngành nghề. Trong mấy năm gần đây số lượng
các loại giấy phép này không những không giảm mà đang có chiều hướng tăng lên cả về số lượng và tính phức tạp; chúng thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, các doanh nhân rất khó khăn trong việc tìm kiếm những văn bản pháp luật chuyên ngành quy định những hoạt động kinh doanh phải có giấy phép kinh doanh. Ngay cả các cơ quan Nhà nước cũng chưa thể thống kê hết được có bao nhiêu ngành, nghề kinh doanh cần phải có giấy phép. Trong khi đó, những giấy phép mới được ban hành càng ngày càng nhiều hơn trước và khó tiên liệu hơn trước. Cơ quan ĐKKD có nghĩa vụ hướng dẫn cho người dân nhưng chính họ cũng không biết hiện có những loại giấy phép nào đang có hiệu lực đối với ngành, nghề nào, thủ tục và điều kiện cấp phép ra sao?
Thứ hai, các giấy phép xin mất nhiều thời gian, công sức và chi phí nhưng lại có giá trị rất ngắn.
Thứ ba, giấy phép thường trùng lặp hoặc không cần thiết và trái luật chưa được ngăn chặn hiệu quả và cũng chưa được bãi bỏ kịp thời.
Thứ tư, chưa thiết lập được nguyên tắc kiểm soát việc ban hành giấy phép mới và chưa thường xuyên đánh giá hiệu lực cũng như tính hữu ích của giấy phép và các điều kiện kinh doanh hiện hành khác.
Thứ năm, việc chuyển giấy phép sang điều kiện kinh doanh cũng không có nhiều ý nghĩa vì cuối cùng họ cũng phải đáp ứng nhiều yêu cầu và tiêu chuẩn trước khi đi vào hoạt động.
Thứ sáu, mục tiêu cấp phép đôi lúc không rõ ràng, tiêu chí để cơ quan hành chính cấp phép hoặc từ chối cấp phép đôi khi chưa rõ ràng.
Thứ bẩy, quy trình cấp phép và giám sát điều kiện kinh doanh chưa có sự tham gia của những người liên quan, chưa tham vấn và giải thích rõ các quyền của người làm đơn xin cấp phép, nếu từ chối cấp phép thường cũng không nêu nguyên nhân và giải thích quyền khiếu nại cho đương sự [39, tr 12,13].
Có thể đánh giá rằng nạn giấy phép và điều kiện kinh doanh đang là vấn đề lớn nhất và khó giải quyết nhất trong nội dung của pháp luật về ĐKKD. Điều này không chỉ xuất phát từ phạm vi ảnh hưởng rộng của giấy phép ở tất cả các ngành, lĩnh vực, mà việc duy trì và phát triển chúng còn là một nguồn lợi lớn của các bộ, ngành. Chính vì gắn với lợi ích của các bộ, ngành mà càng ngày số lượng các giấy phép và điều kiện kinh doanh không hề giảm mà còn đang khó loại bỏ vì tính cần thiết của chúng đã được chính các quy định của pháp luật đã được các đại biểu Quốc hội thừa nhận và thông qua. (Chẳng hạn như các quy định của Luật thương mại năm 2004, Luật du lịch năm 2005 đã “vô tình” quy định cho các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thẩm quyền xét duyệt và cấp một số loại giấy phép).
Bên cạnh đó, các quy chế hành chính, thủ tục hành chính về điều kiện kinh doanh cũng xuất hiện ngày càng nhiều trong các quy định của pháp luật. Đặc điểm của các quy chế và thủ tục này là khó có thể định tính một cách rõ ràng và tính khó khăn và phức tạp của chúng khi được thực hiện trên thực tế. Hiện nay, chúng ta mới chỉ thống kê được các giấy phép kinh doanh dưới hình thức là sự chấp thuận của các cơ quan nhà nước mà chúng ta chưa thống kê được những quy chế hành chính điều chỉnh các hoạt động kinh doanh có điều kiện khác. Thực tế này đã và đang tiếp tục là những dào cản khó khăn đối với các doanh nghiệp khi kinh doanh trong những ngành nghề và lĩnh vực này.
2.3.7. Về cơ quan đăng ký kinh doanh
Hệ thống cơ quan ĐKKD đã được thành lập tại tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước. Tuy nhiên, cơ quan ĐKKD cấp huyện chưa được thành lập đầy đủ tại tất cả các huyện, chưa chính thức có một cơ quan quản lý hệ thống các cơ quan ĐKKD địa phương tại trung ương. Nhìn chung các cơ quan ĐKKD
chưa được kiện toàn về bộ máy và tổ chức nhân sự. Còn nhiều hạn chế và thiếu thốn về kinh nghiệm công tác cũng như các trang thiết bị phục vụ cho công tác ĐKKD. Hệ thống cơ quan ĐKKD chưa được quy định và hình thành một cách rõ ràng về tổ chức, chưa thành một hệ thống cơ quan độc lập. Mối quan hệ giữa các cơ quan trong hệ thống là chưa rõ ràng. Sự phối hợp trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa Phòng ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện là rất yếu và kém hiệu quả. Chủ yếu quan hệ giữa các cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và trung ương thông qua Sở Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Về mặt nhân sự, hiện cả nước có khoảng hơn 1000 cán bộ làm công tác ĐKKD, trong đó có trên 300 cán bộ chuyên trách phòng ĐKKD cấp tỉnh và khoảng 700 cán bộ (cả chuyên trách và kiêm nhiệm) ở cấp huyện [48, tr 8]. Trong khi đó mỗi năm phải đăng ký trung bình cho khoảng 20.000 doanh nghiệp và số lượng doanh nghiệp phải kiểm tra, thanh tra cho đến hiện nay là khoảng trên 100.000 doanh nghiệp. Đây quả là một khối lượng công việc khổng lồ. Mặt khác biên chế của các phòng ĐKKD đều thuộc biên chế của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Ngân sách, cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Do đó, với nguồn lực và cơ sở vật chất còn hạn chế các Phòng ĐKKD còn được ví von là “sự đau khổ kéo dài”.
Các phòng ĐKKD trên cả nước về cơ bản đã thực hiện tốt được nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận ĐKKD theo quy định của pháp luật nhưng chưa có phòng ĐKKD nào hoàn thành nhiệm vụ hướng dẫn các doanh nhân về ngành nghề có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó theo quy định của pháp luật. Thực trạng này cũng không hoàn toàn xuất phát từ sự yếu kém của các cán bộ ĐKKD mà nó là hệ quả của sự chồng chéo, phức tạp, kém minh bạch và công khai của các văn bản quy phạm pháp luật quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó của các bộ ngành, địa phương. Hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay
đang chứa đựng những quy định chính thức và cả không chính thức, cả thành văn và bất thành văn về những ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề. Hệ quả là ngay cả các bộ, ngành và địa phương đặt ra các điều kiện và giấy phép cũng không thể chắc chắn trong ngành, địa phương mình có bao nhiêu những điều kiện và giấy phép? Do đó, các cán bộ ĐKKD không thể hướng dẫn được cho các doanh nhân về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh là có thể lý giải được. Thực trạng này cho chúng ta thấy rằng để các cán bộ ĐKKD có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình thì nỗ lực bản thân của riêng các phòng ĐKKD và cán bộ ĐKKD không thôi vẫn chưa đủ mà cần phải có những quy định rõ ràng và thống nhất về các nội dung liên quan đến pháp luật về ĐKKD.
Thực tiễn tiến hành các quy định về ĐKKD đã bộc lộ nhiều hạn chế của các cơ quan ĐKKD đối với hệ thống thông tin về doanh nghiệp. Đặc biệt là việc quản lý thông tin liên quan đến việc đặt tên cho các doanh nghiệp, thay đổi các thông tin về doanh nghiệp và quản lý những doanh nghiệp đã giải thể hoặc phá sản. Cục phát triển doanh nghiệp Vừa và Nhỏ thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã bắt đầu triển khai hệ thống quản lý thông tin về doanh nghiệp nhưng do không được triển khai thống nhất và đồng bộ trên phạm vi cả nước nên vẫn chưa hạn chế được hiện tượng doanh nghiệp trùng tên hoặc có tên gây nhầm lẫn với các doanh nghiệp khác. Mặt khác số lượng thống kê các doanh nghiệp còn đang hoạt động và các doanh nghiệp đã giải thể được Cục phát triển doanh nghiệp Vừa và Nhỏ thống kê so với con số thống kê của Tổng cục Thống kê và Tổng Cục thuế là khác nhau [48, tr 12]. Chúng ta có thể đánh giá phần nào năng lực của các Cơ quan ĐKKD thông qua ví dụ dưới đây:
Bảng 2.13. Lỗ hổng hậu đăng ký kinh doanh