Ngành, Nghề Kinh Doanh Không Thuộc Lĩnh Vực Bị Cấm Kinh Doanh (Theo Danh Mục Những Ngành Nghề Cấm Kinh Doanh Do Chính Phủ Quy Định).



2) Có địa chỉ xác định gồm số nhà, tên phố (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh thành phố trực thuộc trung ương; số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).

3) Trụ sở của chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu có)

(Điều 35 LDN năm 2005)


Về nội dung đăng ký kinh doanh

Điều kiện về nội dung ĐKKD có thể được thể hiện dưới hai hình thức: chủ thể ĐKKD chỉ được ĐKKD những ngành nghề nhất định và giấy chứng nhận ĐKKD chỉ ghi những ngành, nghề mà doanh nghiệp được phép kinh doanh. Những nội dung ĐKKD kinh doanh có điều kiện, bị hạn chế, bị cấm:

Bảng 2.6. Điều kiện về nội dung đăng ký kinh doanh


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

1. Cấm các hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân, làm huỷ hoại tài nguyên, phá huỷ môi trường (khoản 3 Điều 7 của LDN).

2. Ngành, nghề kinh doanh không thuộc lĩnh vực bị cấm kinh doanh (theo Danh mục những ngành nghề cấm kinh doanh do Chính phủ quy định).

Đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam - Thực trạng và một vài kiến nghị - 6

3. Có đủ các điều kiện kinh doanh hoặc thực hiện được các điều kiện kinh doanh (khoản 2 Điều 7 của LDN).

4. Tên của doanh nghiệp phải được đặt đúng theo quy định tại các điều 31, 32, 33 và 34 của LDN.


2.1.3. Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh

Thủ tục ĐKKD được quy định tại các điều 15, 20, 26 và 28 của LDN năm 2005 và được tiến hành theo các quy định tại Chương IV và Chương V của Nghị định số 88 của Chính phủ về ĐKKD.


Điều kiện về thủ tục cũng được thực hiện khá thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp. Các quy định về thủ tục có đơn giản hơn khi áp dụng đối với việc ĐKKD hộ kinh doanh. Theo quy định của LDN năm 2005 và các văn bản hướng dẫn, thì về cơ bản thủ tục ĐKKD được các chủ thể ĐKKD thực hiện theo các bước sau:

Bảng 2.7. Thủ tục chung về đăng ký kinh doanh


1. Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ ĐKKD theo quy định tại cơ quan ĐKKD nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính.

2. Phòng ĐKKD cấp tỉnh trao giấy biên nhận hồ sơ.

3. Nộp đủ lệ phí ĐKKD.

4. Cơ quan ĐKKD xem xét hồ sơ và nếu thấy đủ điều kiện thì cấp giấy chứng nhận ĐKKD trong thời hạn là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ. Nếu từ chối cấp thì phải thông báo về lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung.

5. Nếu không đủ điều kiện, Phòng ĐKKD cấp tỉnh phải thông báo rõ nội dung yêu cầu sửa đổi, bổ sung và cách thức sửa đổi, bổ sung hồ sơ ĐKKD cho người thành lập doanh nghiệp.

6. Nhận kết quả cấp giấy chứng nhận ĐKKD khi đến hạn.


2.1.4. Giải quyết các tranh chấp về đăng ký kinh doanh

Các tranh chấp về ĐKKD được chia ra thành hai loại, tranh chấp giữa các doanh nhân, doanh nghiệp với nhau về ĐKKD và giữa doanh nhân, doanh nghiệp với các cán bộ, công chức nhà nước, cơ quan nhà nước về ĐKKD.

LDN năm 1999 và năm 2005 đều không có quy định cụ thể về vấn đề giải quyết tranh chấp trong quá trình ĐKKD. Nghị định số 109 và Nghị định số 88 đã bổ sung quy định về giải quyết tranh chấp về ĐKKD. Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 88 quy định “Nếu sau 10 ngày làm việc mà không được cấp giấy chứng nhận ĐKKD hoặc không nhận được thông báo yêu cầu sửa đổi,


bổ sung hồ sơ ĐKKD thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.” Điều 35 và khoản 4 Điều 38 của Nghị định số 88 quy định về quyền khiếu nại của doanh nghiệp, hộ kinh doanh khi tiến hành ĐKKD, thay đổi nội dung ĐKKD cũng có những quy định tương tự. Điều này cũng có nghĩa là các quyết định của Cơ quan ĐKKD, hành vi của các cán bộ, công chức ĐKKD sẽ có thể bị khiếu kiện theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

Tranh chấp giữa các doanh nhân, doanh nghiệp với nhau về ĐKKD được thực hiện trên cơ sở các quy định của LDN năm 2005 và các quy định pháp luật liên quan. Chẳng hạn tranh chấp về tên doanh nghiệp được LDN 2005 và Nghị định số 88 khuyến khích giải quyết bằng con đường thương lượng. Khoản 1 Điều 13 của Nghị định số 88 quy định “… Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tên trùng và tên gây nhầm lẫn tự thương lượng với nhau để đăng ký đổi tên doanh nghiệp”. Tuy nhiên, cũng tuỳ từng loại tranh chấp cụ thể giữa các bên mà việc giải quyết tranh chấp sẽ được thực hiện theo những cách thức khác nhau (ví dụ các tranh chấp về tên thương mại có liên quan đến ĐKKD sẽ được giải quyết theo các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ).


2.2. Những thành tựu đạt được của pháp luật về đăng ký kinh doanh LDN năm 1999 ra đời và những kết quả thu được trong quá trình áp dụng luật này trên thực tế đã được đánh giá là một hình mẫu cho quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật ở Việt Nam. Trong khi LDN năm 2005 chưa có nhiều thời gian để chúng ta có thể đánh giá được những kỳ vọng mà nó sẽ mang lại, thì việc đánh giá một cách khách quan về những thành tựu cũng như những hạn chế của LDN năm 1999 là hết sức cần thiết. Những quy định hợp


lý cũng như những bất cập của LDN năm 1999 đã được thực tế kiểm nghiệm sẽ là cơ sở để LDN năm 2005 tiếp tục kế thừa và phát triển.


2.2.1. Những đổi mới mang tính tiên phong của Luật doanh nghiệp năm 1999

Những quy định về chế độ ĐKKD trong LDN năm 1999 đã thể hiện được sự đổi mới nhận thức căn bản về tư duy, trong đó bao gồm cả tư duy về cải cách kinh tế và cải cách thủ tục hành chính. LDN đã khẳng định rõ ràng rằng mọi tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đều được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. Trong đó, bên cạnh những loại hình doanh nghiệp đã có trước đây, LDN năm 1999 đã quy định thêm nhiều hình thức tổ chức kinh doanh mới nhằm đáp ứng tốt được mọi yêu cầu của tổ chức, cá nhân về cách thức tổ chức kinh doanh. Doanh nghiệp được quyền kinh doanh tất cả những ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

LDN năm 1999 đã cải cách thủ tục hành chính tương đối thành công để giảm thời gian quy định trong luật và thời gian thực tế ĐKKD thành lập mới một doanh nghiệp trung bình từ 90 ngày xuống trung bình còn 7 ngày. Đặc biệt ở một số nơi thời gian chỉ còn khoảng 2 đến 3 ngày [49, tr 11]. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi chưa có các quy định của LDN năm 1999, thủ tục thành lập doanh nghiệp được đánh giá là rất phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian. Thời gian thành lập doanh nghiệp được rút ngắn, thủ tục thành lập được đơn giản hoá có phần đóng góp không nhỏ từ việc đã loại bỏ khỏi luật những yêu cầu mà các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khó đáp ứng được vào lúc thành lập một doanh nghiệp như các yêu cầu về vốn pháp định, hợp đồng thuê văn phòng, xác nhận về vốn doanh nghiệp tại ngân hàng…


Bên cạnh đó những yêu cầu đối với các cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước khi thực thi LDN cũng đã được quy định rõ ràng về nghĩa vụ đã tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình ĐKKD nhanh chóng và hiệu quả. Chẳng hạn các nghĩa vụ về trách nhiệm hướng dẫn thủ tục ĐKKD, nghĩa vụ cấp giấy biên nhận hồ sơ, nghĩa vụ thông báo bằng văn bản khi hồ sơ chưa hợp lệ, nghĩa vụ tuân thủ các quy định về thời hạn…

Với những quy định phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và của cả xã hội, LDN đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Theo số liệu thống kê của Cục phát triển Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ đầu năm 2000 đến hết năm 2005, đã có 160.752 doanh nghiệp ĐKKD, gấp 3,3 lần tổng số doanh nghiệp đã đăng ký thành lập trong cả giai đoạn 1991-1999). Số doanh nghiệp đăng ký trung bình hiện nay bằng khoảng gần 6 lần so với số trung bình hàng năm giai đoạn 1991-1999. Số vốn đăng ký mới đạt khoảng 312,2 nghìn tỷ đồng (khoảng 20 tỷ USD), chưa kể số vốn doanh nghiệp đăng ký bổ sung trong quá trình hoạt động (khoảng 103,4 nghìn tỷ tương đương khoảng 6,3 tỷ USD). Con số này gấp hơn nhiều lần so với số vốn đăng ký giai đoạn 1991-1999 và cao hơn số vốn FDI đăng ký trong cùng thời kỳ. Ngoài ra, còn có hàng chục nghìn chi nhánh, văn phòng đại diện và khoảng hơn 2 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động [48, tr 9]. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2004 tổng số việc làm được tạo ra trong khu vực DNTN (khu vực doanh nghiệp hoạt động theo LDN) là 2.475.448 việc làm trong tổng số 5.770.201 việc làm được tạo ra trong cả nước, cao hơn cả khu vực DNNN và cao hơn gấp đôi khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng về tổng doanh thu, về tổng tài sản có, về vốn tự có và về lợi nhuận cũng tăng trưởng hết sức ấn tượng. Có thể theo dõi tốc độ tăng trưởng ấn tượng của doanh nghiệp hoạt động theo LDN tại [48, tr 40].


Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng thành công lớn nhất của LDN không phải là những con số ấn tượng mà đó là tinh thần cải cách mang tính tiên phong với mục đích phát huy nội lực, giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Tinh thần cải cách này thể hiện rõ trong việc tạo ra một hành lang pháp lý minh bạch, công bằng cho mọi chủ thể đồng thời hạn chế tối đa sự cửa quyền, tham nhũng của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.

Với sự ra đời của LDN, phương thức quản lý theo lối “năng lực quản lý đến đâu thì mở đến đó đã từng bước được thay thế bằng “năng lực quản lý phải được xây dựng, tăng cường đủ mức thúc đẩy và quản lý được quá trình phát triển”. Phương thức quản lý theo hướng kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu đang từng bước được thay thế bằng phương thức hợp tác và tạo điều kiện là chủ yếu, “chế độ tiền kiểm” đang được chuyển sang “chế độ hậu kiểm”. Tinh thần cải cách này đã tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng không chỉ đối với khu vực DNTN hoạt động theo LDN mà tinh thần này còn được chuyển tải sang cả khu vực DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những thành quả này là một trong những nguyên nhân thúc đẩy việc thống nhất hoá quy phạm điều chỉnh đối với các loại hình kinh doanh nói chung và thống nhất các quy định về ĐKKD nói riêng trong LDN.


2.2.2. Tiếp tục ghi nhận những đổi mới tích cực trong Luật doanh nghiệp năm 2005

Có thể nhận thấy, về cơ bản LDN năm 2005 đã kế thừa toàn bộ những quy định hợp lý về chế độ ĐKKD áp dụng cho các chủ thể kinh doanh của LDN năm 1999, đồng thời LDN năm 2005 cũng đã có những sửa đổi theo hướng tính cực nhằm tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp,


tạo cơ sở nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu quả quản lý của Nhà nước nói chung và của cơ quan ĐKKD nói riêng.

Về những chủ thể được phép thành lập doanh nghiệp, LDN vẫn giữ nguyên những chủ thể được phép thành lập doanh nghiệp như quy định cũ đồng thời mở rộng quy định cho phép tất cả những tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức cá nhân Việt Nam bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài thường trú hay không thường trú tại Việt Nam đều được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp.

LDN năm 2005 tiếp tục rút ngắn thời hạn ĐKKD từ 15 ngày trong LDN năm 1999 xuống còn 10 ngày. Thực tế thời gian để đăng ký thành lập một doanh nghiệp mới đã được rất nhiều Phòng ĐKKD thực hiện chỉ trong thời hạn từ 2 đến 3 ngày [24, tr 12].

Thay đổi cơ chế hoạt động của Nhà nước từ kiểm soát, ban phát quyền kinh doanh cho người dân sang cơ chế Nhà nước phục vụ nhân dân kinh doanh được thể chế hoá trong LDN năm 2005 đã dẫn tới sự thay đổi về quan niệm từ quy định yêu cầu trong hồ sơ “đơn ĐKKD” sang quy định “giấy đề nghị ĐKKD” khẳng định quyền ĐKKD của doanh nghiệp và nghĩa vụ ĐKKD của cơ quan ĐKKD.

Nếu trước đây hồ sơ ĐKKD chỉ được quy định cụ thể tại các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành LDN năm 1999 thì nay LDN năm 2005 đã chính thức quy định những giấy tờ đầy đủ trong một bộ hồ sơ áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp, ngoài những giấy tờ này doanh nghiệp không phải nộp thêm bất kỳ giấy tờ nào khác.

Những vướng mắc trước đây khi tiến hành đặt tên một doanh nghiệp nay cũng đã được LDN năm 2005 quy định khá chi tiết. Các trường hợp bị cấm trong đặt tên doanh nghiệp, những trường hợp đặt tên doanh nghiệp bằng


tiếng nước ngoài, tên viết tắt của doanh nghiệp; trường hợp tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn cũng đã được LDN năm 2005 điều chỉnh khá rõ ràng.

Đổi mới tính cực nhất ghi nhận được trong LDN năm 2005 về ĐKKD đó là việc thống nhất thủ tục ĐKKD đối với các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật DNNN, các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài trước đây và Luật đầu tư năm 2005 hiện nay. Đối với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì về cơ bản vẫn làm thủ tục đăng ký đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, tuy nhiên, việc ghi nhận giấy chứng nhận đầu tư đồng thời cũng là giấy chứng nhận ĐKKD trong LDN năm 2005 lại có một ý nghĩa lớn về sự bình đẳng trước pháp luật của các loại hình doanh nghiệp. Đối với DNNN và các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động theo pháp luật đầu tư sẽ được ĐKKD theo quy định của LDN năm 2005. Bên cạnh đó LDN năm 2005 cũng đã có sự quan tâm đặc biệt đến các hộ kinh doanh thông qua việc quy định các hộ kinh doanh đáp ứng đầy đủ các điều kiện phải có nghĩa vụ ĐKKD theo quy định của pháp luật.

Tuy vậy, những quy định về ĐKKD trong LDN năm 2005 mới chỉ là những quy định chung, mang tính nguyên tắc, do đó để có thể khẳng định các quy định pháp luật về ĐKKD có tiếp tục thể hiện được sự thành công như những quy định trước đây hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào các quy định hướng dẫn về ĐKKD sẽ được ban hành trong thời gian tới.


2.3. Một số vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay

LDN năm 1999 đã được thực hiện được hơn 6 năm, trong khi đó LDN năm 2005 mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006. Do đó, tổng kết công tác thi hành và đánh giá những mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực của pháp luật về ĐKKD trong phần này sẽ được thực hiện chủ yếu trên cơ sở đánh

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 18/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí