Đăng Ký Kinh Doanh Kiểu Hành Doanh Nghiệp


giá kết quả sáu năm thi hành LDN năm 1999. LDN năm 2005 về cơ bản vẫn kế thừa những quy định của LDN năm 1999, do vậy những bài học rút ra từ thực tiễn thi hành LDN năm 1999 sẽ vẫn có giá trị hữu ích đối với LDN năm 2005. Thực tiễn hơn sáu năm thi hành LDN năm 1999 đã ghi nhận một số những bât cập chủ yếu sau đây:


2.3.1. Về địa điểm đăng ký kinh doanh

Địa điểm ĐKKD là một điều kiện bắt buộc theo quy định của LDN khi doanh nghiệp tiến hành ĐKKD. Địa điểm ĐKKD chính là địa điểm nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính (khoản 1 Điều 35 LDN năm 2005). Doanh nghiệp khi ĐKKD cũng như khi thay đổi địa chỉ ĐKKD phải thông báo cho Phòng ĐKKD địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp về địa chỉ, số nhà, tên phố, ngõ phố hoặc tên xã phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Điều này có nghĩa rằng doanh nghiệp không phải cung cấp thêm bất cứ thông tin gì khác ngoài địa chỉ nơi mình đặt trụ sở chính. Tuy nhiên, thực tế ĐKKD trong thời gian qua ghi nhận một số trường hợp cá biệt cán bộ ĐKKD yêu cầu doanh nghiệp cung cấp hợp đồng thuê nhà, mượn nhà hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà hoặc quyền sử dụng đất. Nhận thức sai lệch này của cán bộ ĐKKD là trái với tinh thần quy định của LDN. Điều này cũng hay xảy ra đối với các cán bộ làm thủ tục khắc dấu, đăng ký mã số thuế và mua hoá đơn.

Có thể tìm thấy trong thực tiễn rất nhiều ví dụ về cách áp dụng quy định của pháp luật về ĐKKD trái với tinh thần của luật. Rất nhiều trường hợp không rõ vì nhận thức yếu kém hay do những mong muốn chủ quan của cán bộ ĐKKD mà việc áp dụng các quy định về ĐKKD lại khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều so với nội dung thực tế của các quy định này. Chúng ta có thể cảm nhận rõ thực tế này thông qua ví dụ dưới đây:


Bảng 2.8. Đăng ký kinh doanh kiểu hành doanh nghiệp


Anh Võ Huỳnh Quang, ngụ tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh cho biết, anh đứng tên giám đốc, nộp đơn xin thành lập công ty tại Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố. Trụ sở công ty theo quyết định của Hội đồng quản trị đặt tại phường 25, quận Bình Thạnh, là nhà thuộc sở hữu của anh ruột anh nhưng chưa được hợp thức hoá.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

“Cán bộ phòng ĐKKD yêu cầu tôi phải nộp hợp đồng thuê nhà có chứng thực thì mới cấp phép thành lập. Trong khi nhà anh tôi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, Uỷ ban nhân dân phường không chịu chứng thực hợp đồng”, anh Quang kể.

Sau nhiều lần lên xuống phường, qua phòng ĐKKD mà không đạt kết quả, anh Quang phải nhờ một công ty chuyên tư vấn thực hiện dịch vụ ĐKKD mới lách được bằng cách xin cấp số nhà cho trụ sở và đưa tên người anh vào danh sách uỷ viên hội đồng quản trị.

Đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam - Thực trạng và một vài kiến nghị - 7

“Tôi chỉ cần làm lại danh sách hội đồng quản trị, kèm giấy cho mượn nhà làm trụ sở của công ty của uỷ viên và quyết định cấp số nhà, bổ sung vào hồ sơ thành lập công ty là xong” anh Quang thở phào nhẹ nhõm. Thế nhưng, anh đã mất gần 3 tháng mới hoàn tất các thủ tục hồ sơ, sau khi tốn thêm chi phí cấp số nhà và thuê công ty tư vấn [26].

(Hồng Anh, Báo điện tử www.vnexpress.net)


Như vậy, mặc dù luật không quy định nhưng các cán bộ ĐKKD vẫn yêu cầu người ĐKKD phải thực hiện thêm những thủ tục và tốn thêm những chi phí không đáng có. Nhưng cho dù pháp luật có quy định chặt chẽ hơn hay các cán bộ ĐKKD có đưa ra thêm những yêu cầu về địa điểm ĐKKD cũng vẫn không làm giảm được các vi phạm pháp luật về địa điểm kinh doanh sau khi doanh nghiệp đã ĐKKD.


Sau hơn sáu năm thi hành LDN năm 1999 đã xuất hiện nhiều các doanh nghiệp không còn tồn tại tại nơi đăng ký, con số cụ thể thống kê được đến hết tháng 7 năm 2003 là khoảng 1650 doanh nghiệp chiếm khoảng 2,3% tổng số doanh nghiệp đã đăng ký. Nhiều ý kiến cho rằng luật quy định về địa điểm ĐKKD như vậy là quá thoáng tạo điều kiện cho các “công ty ma” hoạt động và yêu cầu cần phải có quy định chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, thực tế ngay cả khi đặt ra yêu cầu chặt chẽ hơn về địa điểm ĐKKD, số lượng doanh nghiệp không tồn tại ở nơi ĐKKD vẫn tồn tại. Mặt khác số lượng doanh nghiệp không hoạt động tại nơi ĐKKD là do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do giải thể mà không báo cáo, mất cơ hội kinh doanh, dự tính sai cơ hội kinh doanh, chỉ có một số ít doanh nghiệp thành lập để mua bán hoá đơn. Nếu so con số 2,3% này với tỷ lệ 10% số doanh nghiệp ở Mỹ và 20-30% số doanh nghiệp tại các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD giải thể sau một thời gian ĐKKD thì tỷ lệ doanh nghiệp giải thể này ở Việt Nam là có thể chấp nhận được[23, tr 5].

Xét cả về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn ĐKKD thì chúng ta không thể mong quy định về địa điểm kinh doanh chặt chẽ để làm giảm những “doanh nghiệp ma” hoặc những doanh nghiệp làm ăn phi pháp. Bởi cho dù chứng minh được địa điểm kinh doanh như yêu cầu, nhưng sau một thời gian kinh doanh chẳng ai có thể khẳng định doanh nghiệp có vi phạm pháp luật hay không. Theo chúng tôi, nguyên nhân này xuất phát từ cơ chế hậu kiểm kém hiệu quả và còn nhiều yếu kém nên doanh nghiệp có địa chỉ kinh doanh không rõ ràng hoặc có thay đổi địa chỉ nhưng không khai báo dẫn đến các cơ quan ĐKKD không biết hiện doanh nghiệp đó có còn tồn tại hay không.


2.3.2. Về nội dung đăng ký kinh doanh

Những vướng mắc lớn nhất gặp phải trong nội dung ĐKKD của doanh nghiệp đó là các quy định về đặt tên doanh nghiệp. Việc đặt tên doanh nghiệp theo quy định tại LDN năm 1999 khá đơn giản, do đó thực tế áp dụng đã bắt đầu phát sinh nhiều tranh luận. Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về ĐKKD đã quy định theo hướng cụ thể hơn và những quy định này đã được pháp điển hoá ại các điều 31, 32, 33 và 34 của LDN năm 2005. Nghị định số 88 cũng vẫn tiếp tục kế thừa những quy định trước đây về tên doanh nghiệp tại Chương III về tên doanh nghiệp mà không có nhiều thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, ngay cả khi Nghị định số 109 nêu trên được áp dụng trên thực tế, những vướng mắc nảy sinh từ các quy định về đặt tên doanh nghiệp cũng vẫn xuất hiện. Có thể tham khảo những vấn đề còn tồn tại trong đặt tên doanh nghiệp tại các Phòng ĐKKD thông qua tình huống dưới đây:

Bảng 2.9. Tên doanh nghiệp, sao khó thế!


“...Một nhà đầu tư kể, cách đây không lâu, ông cùng một nhóm bạn định lập một công ty cổ phần lấy tên là X.S. Tuy nhiên, khi đến Sở Kế hoạch và đầu tư TP. HCM làm thủ tục ĐKKD thì nhân viên ở đây yêu cầu phải lấy tên khác vì cho rằng tên dự kiến đặt nói trên là tên tiếng Anh(!).

Tranh cãi mãi không xong, ông đành chuyển hướng đầu tư lên Bình Dương với hy vọng thủ tục sẽ thông thoáng hơn. Thế nhưng, ông cũng hoàn toàn thất vọng khi cách giải thích của các nhân viên ở đây cũng chẳng khác gì so với tại TP. HCM. Ý định mở công ty cùng nhóm bạn bè ông, rốt cuộc, đành phải huỷ bỏ!

Trường hợp nói trên cũng không phải là duy nhất. Rất nhiều doanh nghiệp cũng gặp những cảnh dở khóc, dở cười vì chuyện đặt tên. Một công ty may mặc tại TP. HCM ban đầu được đặt một cái tên nghe rất “tây”: TONY. Nhưng vì cái tây ấy


mà doanh nghiệp bị buộc phải sửa đi, sửa lại, cuối cùng phải thêm vào một cái dấu, thành TÔNY, thì mới được chấp nhận.

Tương tự, thay vì tên dự kiến là Công ty EROS, một doanh nghiệp phải đổi tên thành Công ty Thần Tình; Công ty AWARD SHIPPING thì phải đổi thành Công ty Giải Thưởng; Công ty BEST phải thành B.E.S.T...

Vướng mắc nói trên thực chất xuất phát từ cách hiểu và áp dụng luật pháp của các cơ quan ĐKKD. LDN năm 1999 quy định tên của doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt. Đến Nghị định 109 của Chính phủ ban hành ngày 2-4-2004, khái niệm “phải viết bằng tiếng Việt” được hướng dẫn thoáng hơn với quy định “phải viết được bằng tiếng Việt”...

Ông Nguyễn Đình Cung, người tham gia soạn thảo cả hai LDN, cho rằng cách vận dụng như trên là quá máy móc và vô lý. “EROS, AWARD SHIPPING, TONY..., có chữ nào là không viết được bằng tiếng Việt? Và đây là tên riêng của doanh nghiệp, mà đã là tên riêng thì không thể buộc doanh nghiệp phải chuyển nghĩa...” [32].

(Hoàng Tấn, Thời báo kinh tế Sài gòn, thứ ba, 27/06/2006)


Rõ ràng là tại các cơ quan ĐKKD cách hiểu và vận dụng pháp luật đang ngây trở ngại không nhỏ cho việc áp dụng thống nhất và sáng tạo pháp luật. Nghị định 109 của Chính phủ ngày 2-4-2004 và LDN năm 2005 đã quy định rõ: tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt và có thể kèm theo chữ số và có thể phát âm được. Những tên doanh nghiệp nêu trên hoàn toàn có thể viết được bằng bảng chữ cái tiếng Việt và cũng có thể phát âm được. Mặc dù cũng đã có những quy định tham vấn các cơ quan hữu quan về cách đặt tên doanh nghiệp nhưng gần như các Phòng ĐKKD rất ít khi tham vấn mà thường quyết định một cách rất cảm tính. Tôi nhận thấy rằng nếu việc tham vấn về tên doanh nghiệp được thực hiện rộng rãi, đầy đủ theo quy định, chắc chắn sẽ tạo được nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp. Điểm 4 Mục III Thông tư số


03/2004/TT-BKH ngày 29-6-2004 hướng dẫn trình tự, thủ tục ĐKKD theo quy định tại Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về ĐKKD quy định:

Trong trường hợp cần thiết để xem xét, trả lời tên doanh nghiệp khi ĐKKD, Phòng ĐKKD cấp tỉnh gửi công văn tới Sở Văn hoá - Thông tin, Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (đơn vị có chức năng nghiên cứu về ngôn ngữ học) theo mẫu MTB-21 để lấy ý kiến về tên doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp trong trường hợp này được xem xét trên cơ sở tập hợp ý kiến của các cơ quan trên và Phòng ĐKKD cấp tỉnh, được quyết định theo đa số; trường hợp ý kiến trả lời về tên doanh nghiệp không được giải quyết theo đa số, thì được xem xét và quyết định theo bên có ý kiến của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Phòng ĐKKD cấp tỉnh có trách nhiệm tổng hợp và lưu giữ ý kiến của các cơ quan trả lời về tên doanh nghiệp. Trường hợp không đồng ý với ý kiến về tên doanh nghiệp do các cơ quan trả lời, doanh nghiệp có quyền khiếu nại lên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc kiện ra Toà Hành chính cấp tỉnh nơi nộp hồ sơ ĐKKD theo quy định của pháp luật.

Trên thực tế, theo những thông tin mà tác giả biết được hiện chưa có trường hợp đặt tên doanh nghiệp nào được các Phòng ĐKKD tham vấn theo các quy định nêu trên mà thông thường các Phòng ĐKKD thường yêu cầu các doanh nghiệp đăng ký đổi tên khác.

Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 31 của LDN năm 2005, thì “Căn cứ vào các quy định tại các điều 31, 32, 33 và 34 của Luật này, cơ quan ĐKKD có quyền từ chối chấp thuận tên dự kiến đăng ký của doanh nghiệp và quyết định của cơ quan ĐKKD là quyết định cuối cùng.” Quy định này sẽ được hiểu là quyết định của Cơ quan ĐKKD về tên của doanh nghiệp sẽ là


quyết định cuối cùng và doanh nghiệp không không có quyền khiếu nại theo quy định. Và hiện cũng không rõ theo quy định này thì doanh nghiệp có quyền khiếu kiện quyết định này của Cơ quan ĐKKD ra Toà án hành chính hay không. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng Điều 7 Chương VI của Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ quy định:

Các Bên duy trì các cơ quan tài phán và thủ tục hành chính và tư pháp nhằm mục đích, ngoài những điều khác, xem xét và sửa đổi nhanh chóng theo yêu cầu của người bị ảnh hưởng các quyết định hành chính liên quan đến các vấn đề được quy định tại Hiệp định này. Các thủ tục này bao gồm cơ hội khiếu kiện mà không bị trừng phạt cho người bị ảnh hưởng bởi quyết định có liên quan. Nếu như quyền khiếu kiện ban đầu là quyền khiếu nại lên một cơ quan hành chính thì phải có cơ hội để khiếu nại quyết định của cơ quan hành chính đó lên một cơ quan tư pháp…

Cũng vẫn là chuyện đặt tên doanh nghiệp, nhưng lại là một khía cạch khác của việc đặt tên. Đó là việc đặt tên doanh nghiệp trùng và tên doanh nghiệp gây nhầm lẫn. Thực tế có nhiều doanh nghiệp đã rất khó khăn và mất nhiều thời gian khi phải đến Sở kế hoạch và Đầu tư để tra cứu tên doanh nghiệp thành lập trước đó nhằm tránh sự trùng lặp. Tuy khó khăn như vậy nhưng các tên doanh nghiệp được lựa chọn một cách thủ công chỉ tránh được sự nhầm lẫn và trùng tên trong phạm vi tỉnh, thành phố mà doanh nghiệp đã đăng ký chứ không có gì để đảm bảo tên đó của doanh nghiệp chưa bị trùng hay nhầm lẫn với doanh nghiệp ở tỉnh, thành phố khác. Việc tra cứu thủ công tên doanh nghiệp để tránh nhầm lẫn trong kỷ nguyên công nghệ thông tin này có vẻ như gây cho các doanh nghiệp nhiều bất ngờ, nhưng họ còn bất ngờ hơn khi biết rằng chiến lược tin học hoá thủ tục hành chính đã được áp dụng cho các Sở Kế hoạch và Đầu tư và Cục Phát triển doanh nghiệp Vừa và Nhỏ thuộc


Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ lâu nhưng các đơn vị này vẫn chưa có một phần mềm thống nhất để quản lý tên doanh nghiệp. Cho đến nay, sau hơn sáu năm thi hành LDN năm 1999, một cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ, cập nhật, thống nhất, có thể truy nhập qua Internet về doanh nghiệp và tên doanh nghiệp vẫn gần như chưa được thiết lập [48, tr 19]. Kết quả là không cơ quan nào kể cả Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể kiểm soát được doanh nghiệp trùng tên, hoặc tên có thể gây nhầm lẫn trên cả nước. Việc này hiện nay vẫn tiếp tục còn tái diễn và chưa được ngăn chặn hiệu quả mà trái lại đang có chiều hướng tăng lên.

Khi đặt tên doanh nghiệp, doanh nghiệp không được sử dụng những từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống, lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nhưng từ mặt nội hàm khái niệm hiểu thế nào là “vi phạm truyền thống, lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc” thì vẫn chưa có cách hiểu thống nhất và giải thích rõ ràng. Cách hiểu dưới đây đang được một số người và một Phòng ĐKKD cho rằng vi phạm truyền thống của dân tộc và không cho phép để đặt tên doanh nghiệp.

Bảng 2.10. Tên doanh nghiệp và truyền thống


Ở Việt Nam trước đây có một công ty TNHH đặt tên là An Nam, tên này đã bị một số cựu chiến binh phản đối và cho rằng tên An Nam là không thể chấp nhận được vì tên này gắn liền với một thời kỳ bi thương của dân tộc. Cuối cùng doanh nghiệp phải đổi tên khác. Trong khi đó, ở Mỹ (thành phố Dar es Salaam, Tanzania) có một công dân thành lập câu lạc bộ mang tên Tổng thống Mỹ, George Bush (George Bush Social Club), và câu lạc bộ này đã thu hút rất nhiều người đến để thưởng thức bia và các món nhậu tại đây. Cái tên ấy gây ấn tượng chính là nhờ vào nickname của ông chủ quán George Charles mà bạn bè đặt cho ông vì ông từng gia sức ủng hộ cho cuộc chiến vùng vịnh năm 1991. Thắng lớn ở câu lạc bộ Bush, ông Charles đang dự định tiến sang các lĩnh vực khác, ông đổi tên công ty mình thanh

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 18/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí