kém nhiều thời gian, chi phí. Các quy định pháp luật về hệ thống thuế, đất đai, tiếp cận nguồn vốn, thủ tục và các chính sách của Nhà nước còn có sự phân biệt bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đặc biệt là giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; DNNN và doanh nghiệp dân doanh.
Hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện và còn nhiều lỗ hổng lại được hiểu, vận dụng thiếu chính xác và thống nhất tại các địa phương đôi lúc đã đặt ra cho pháp luật về ĐKKD của chúng ta những yêu cầu cấp bách cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
2.4.5. Năng lực bộ máy, con người còn nhiều yếu kém
Những yếu kém trong nhận thức và áp dụng pháp luật về ĐKKD khiến chúng ta nghĩ ngay đến sự yếu kém về năng lực, trình độ chuyên môn của mỗi một cán bộ, công chức và năng lực của cả hệ thống các cơ quan nhà nước về ĐKKD. Sự “đau khổ kéo dài” của các cơ quan ĐKKD bắt nguồn từ khối lượng công việc quá lớn trong khi cơ sở vật chất và biên chế con người có hạn. Hoạt động ĐKKD về cơ bản vẫn được thực hiện thủ công mà chưa tận dụng được những khả năng và ưu điểm của khoa học và công nghệ. Mất cân đối nghiêm trọng giữa nhu cầu đòi hỏi và năng lực đáp ứng của các cơ quan ĐKKD vì thế mà không ngừng gia tăng.
Hệ thống các cơ quan nhà nước thực thi pháp luật còn nhiều bất cập, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế; sự cửa quyền, tham nhũng và trách nhiệm của cả bộ máy nhà nước chưa cao đã ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường đầu tư và chi phí giao dịch của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cơ chế giải quyết tranh chấp và cưỡng chế thực thi hợp đồng kém hiệu quả đang hạn chế việc gia nhập thị trường và ký kết hợp đồng kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong khi đó tâm lý của nhiều người, trong đó có cả cán bộ ĐKKD còn thiếu thiện chí đối với doanh nghiệp, môi trường kinh doanh còn thiếu các thiết chế giám sát và hỗ trợ doanh nghiệp. Các tổ chức nghề nghiệp và hiệp hội hoạt động chưa hiệu quả và chưa đem lại lợi ích thiết thực cho các doanh nghiệp. Việc thiếu các cơ chế giám sát và hỗ trợ các doanh nghiệp sẽ vẫn là nguyên nhân làm cho doanh nghiệp trở lên nguy hiểm cho an toàn pháp lý và trật tự công cộng, đồng thời hạn chế khả năng hỗ trợ từng doanh nghiệp phát triển từ đó ảnh hưởng đến khả năng phát triển của cả nền kinh tế.
Những ảnh hưởng và sức ép từ các tổ chức quốc tế, hay các quốc gia cũng như những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ vừa là động lực thúc đẩy cải cách đồng thời cũng là những lực cản bất lợi cho an ninh và sự phát triển bền vững của cả nền kinh tế. Tuy những ảnh hưởng của những yếu tố nêu trên đối với hệ thông pháp luật là không thể tránh khỏi nhưng nhận diện được các yếu tố này khi xây dựng thực thi các quy định pháp luật về ĐKKD sẽ làm giảm những tác động tiêu cực của chúng và làm cho các quy định và chính sách có lợi hơn cho đất nước.
Tiểu kết
Có thể bạn quan tâm!
- Thuế Môn Bài, Rào Cản Mới Đối Với Tinh Thần Kinh Doanh
- Về Giấy Phép Và Điều Kiện Kinh Doanh
- Những Nhân Tố Tác Động Tới Thực Trạng Pháp Luật Về Đăng Ký Kinh Doanh Ở Việt Nam Hiện Nay
- Kiến Nghị Về Giấy Phép Và Điều Kiện Kinh Doanh
- Đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam - Thực trạng và một vài kiến nghị - 13
- Đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam - Thực trạng và một vài kiến nghị - 14
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Trong Chương này, các quy định pháp luật hiện hành về ĐKKD đã được giới thiệu khái quát theo từng vấn đề cụ thể mà khi tiến hành ĐKKD người ĐKKD phải thực hiện. Về cơ bản các quy định pháp luật về ĐKKD của LDN năm 2005 đã kế thừa và phát triển những quy định tại LDN năm 1999. LDN năm 2005 và Nghị định số 88 hướng dẫn thi hành về ĐKKD đã có những sửa đổi nhằm hạn chế những bất cập trước đây về ĐKKD. Tuy vậy, những quy định mới hướng dẫn về ĐKKD vẫn còn để ngỏ nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tiễn mà chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả. Đặc biệt là những vấn đề nổi cộm trong ĐKKD như: vấn đề đặt tên doanh nghiệp; chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ĐKKD; nội dung, thủ tục ĐKKD; giấy phép và điều kiện kinh
doanh… Những thực trạng được nêu trong Chương này thực sự là những vấn đề cần nhanh chóng được giải quyết, nhưng những vấn đề này chỉ được giải quyết triệt để khi chúng ta nhận biết được rõ ràng những nguyên nhân của thực trạng này. Trong Chương này tác giả cũng đã đưa ra được những nguyên nhân cản trở hay hạn chế các cán bộ, công chức áp dụng pháp luật đúng và thống nhất để từ đó đưa ra được những khuyến nghị phù hợp.
Chương 3
MỘT VÀI KIỀN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
3.1 Từ những hạn chế của pháp luật về đăng ký kinh doanh đến việc hoàn thiện chính sách và pháp luật
Khi nói đến ĐKKD là đã nói đến việc thực hiện các thủ tục hành chính để thành lập một doanh nghiệp. Điều này sẽ đặt ra cho các chủ thể kinh doanh nhiều thủ tục, nhiều thời gian, nhiều yêu cầu phải đáp ứng. Trong khi đó quyền tự do kinh doanh của mỗi người đã được pháp luật ghi nhận, về mặt lý thuyết thì công dân có quyền tự do kinh doanh mà không nhất thiết phải tiến hành thủ tục thành lập doanh nghiệp. ĐKKD đối với các mỗi cá nhân, tổ chức kinh doanh là một nghĩa vụ mà không phải chủ thể nào cũng có thể đáp ứng được. Nếu xét quyền tự do kinh doanh theo nghĩa tự do tuyệt đối thì các chủ thể kinh doanh sẽ không phải ĐKKD, do đó, nghĩa vụ ĐKKD xét trong trường hợp này sẽ phần nào hạn chế quyền tự do kinh doanh của mỗi cá nhân, tổ chức khi muốn kinh doanh dưới những hình thức và quy mô nhất định.
ĐKKD về mặt kết quả sẽ tạo ra cho Nhà nước cơ sở để tiến hành hoạt động quản lý, kiểm tra giám sát doanh nghiệp thông qua các quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật càng phức tạp, càng khắt khe sẽ càng tạo cho các chủ thể kinh doanh nhiều chi phí, thời gian và công sức để thực
hiện những quy định đó [38, tr 52]. Chúng tôi nhận thức rằng, các thủ tục hành chính liên quan đến ĐKKD cũng như đến hoạt động của doanh nghiệp là tất yếu nhằm mục đích bảo vệ những lợi ích chung. Do vậy, cải thiện chất lượng và hiệu quả của chính sách và pháp luật để người dân có thể tuân thủ rễ ràng hơn sẽ là một bước đi thích hợp trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.
ĐKKD thực chất là sự kiểm soát của Nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh. Trên thực tế, sự kiểm soát quá mức của Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp cũng như những chi phí, thời gian và công sức phát sinh từ các quy định pháp luật khắt khe và phức tạp đối với hoạt động ĐKKD cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã khiến gia tăng hoạt động kinh doanh không đăng ký hoặc hoạt động không đúng với nội dung đã ĐKKD. Ngược lại, pháp luật về ĐKKD quy định quá rễ ràng khi gia nhập thị trường sẽ đẩy các chủ nợ và thị trường vào tình trạng bất an. Vì vậy, pháp luật về ĐKKD chỉ nên giám sát và quản lý doanh nghiệp ở mức độ hợp lý để bảo vệ thị trường, xã hội. Mọi hoạt động của doanh nghiệp không ảnh hưởng tới lợi ích chung của xã hội phải được hiểu và giải thích là quyền tự do của doanh nghiệp.
Trong khi đó, hoạt động kinh doanh “không chính thức” tạo ra cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân không tuân thủ pháp luật những lợi thế cạnh tranh một cách không công bằng so với những doanh nghiệp có ĐKKD và tuân thủ đầy đủ các quy định. Một cá nhân kinh doanh không ĐKKD và không nộp thuế sẽ tiết kiệm được toàn bộ chi phí ĐKKD, thuế và các nghĩa vụ do pháp luật quy định. Trong khi đó một cá nhân, doanh nghiệp có ĐKKD và tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp của mình sẽ vừa mất chi phí và thời gian cho việc tuân thủ đồng thời thường xuyên phải chịu sự kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước [21, tr 37]. Điều này xảy ra khá phổ biến trên thực tế thực sự là một thách thức đối với việc áp dụng
công bằng và thống nhất pháp luật về kinh doanh. Xây dựng một hệ thống pháp luật bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao khả năng thực thi và giám sát thực thi hiệu quả sẽ xoá bỏ được những lợi thế do không tuân thủ pháp luật. Từ đó sẽ dần xoá bỏ được nền “kinh tế ngầm” đang âm ỉ và thúc đẩy một nền kinh tế thị trường có định hướng phát triển mạnh mẽ.
Thực tế thi hành các quy định pháp luật về ĐKKD đã chứng minh rằng một số quy định pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp đã tác động tiêu cực tới pháp luật về ĐKKD làm cho các quy định này ảnh hưởng xấu đến xã hội và môi trường kinh doanh. Chẳng hạn theo Thông tư số 95/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 26 tháng 10 năm 2005 hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về lệ phí trước bạ trong đó quy định về lệ phí trước bạ khi đăng ký xe ô tô du lịch dưới 7 chỗ là 5%, tuy nhiên đối với các doanh nghiệp, công ty kinh doanh vận tải hành khách thì được hưởng mức thu lệ phí là 2%. Lợi dụng quy định này nhiều cá nhân đã thành lập các DNTN để đăng ký xe nhằm được hưởng mức lệ phí ưu đãi là 2% mà không tiến hành hoạt động kinh doanh. Tình trạng này không chỉ xảy ra trong lịch vực pháp luật về thuế mà còn hay xảy ra trong các lĩnh vực khác như tiếp cận các nguồn vốn, tài nguyên, pháp luật môi trường, lao động… Đã đặt ra nhu cầu phải xây dựng những quy định phù hợp hơn với quy luật của thị trường, để chúng có thể rễ ràng thực thi mà không ảnh hưởng đến những chính sách và quy định khác. Xây dựng các quy định tuân thủ theo các quy luật của thị trường, sẽ nhận được sự hỗ trợ thực thi từ chính thị trường và sẽ được sự ủng hộ bởi chính những lực lượng thị trường mà chúng bảo vệ [21, tr 112].
3.2. Kiến nghị về Cơ quan đăng ký kinh doanh
Cơ quan ĐKKD có một vị trí rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của người dân và triển khai thực thi LDN. Để LDN thực sự đi
vào cuộc sống, đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của người dân, cơ cấu tổ chức, năng lực, chức năng của hệ thống cơ quan ĐKKD phải ngày càng được hoàn thiện.
Trước hết, hệ thống cơ quan ĐKKD phải được kiện toàn thống nhất trong cả nước về mặt cơ cấu tổ chức. Đặc biệt là hệ thống các cơ quan ĐKKD cấp huyện và cơ quan ĐKKD ở cấp trung ương. Tránh tình trạng quá tải cho các Phòng ĐKKD cấp tỉnh, cơ quan ĐKKD cấp huyện cần được nhanh chóng thành lập ở những nơi đủ điều kiện thành lập. Những quận, huyện chưa đủ điều kiện thành lập cơ quan ĐKKD thì cần chuyển trách nhiệm ĐKKD ở những nơi này cho một cơ quan thống nhất thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Nhưng tiến tới cần hệ thống hoá và chuyên nghiệp hoá hệ thống cơ quan ĐKKD các cấp. Cần có sự phân tách rõ về nguồn lực, tổ chức của các cơ quan ĐKKD với các Sở Kế hoạch và Đầu tư và các Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Sao cho các cơ quan ĐKKD các cấp phải có nhân lực và vật lực đủ để có thể phục vụ cho nhu cầu ĐKKD trong nhân dân.
Tiếp đó, là kiện toàn lại chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan ĐKKD các cấp, trong đó đặc biệt chú ý tới việc phân tách thẩm quyền của cơ quan ĐKKD cấp huyện và cấp tỉnh. Cơ quan ĐKKD cấp huyện bên cạnh chức năng ĐKKD cho các hộ kinh doanh và các hợp tác xã nên được giao trách nhiệm lớn hơn trong việc giám sát hoạt động của tất cả các chủ thể kinh doanh hiện đang hoạt động trong phạm vi quận, huyện mình. Qua đó cũng cần tiến tới thống nhất hệ thống quy phạm điều chỉnh hoạt động ĐKKD hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với hệ thống các quy phạm điều chỉnh hoạt động ĐKKD của doanh nghiệp và hộ kinh doanh nhằm tạo sự thống nhất và đơn giản hơn trong quá trình thực hiện. Để hoạt động ĐKKD được tiến hành thống nhất và đảm bảo công tác ĐKKD được tiến hành hiệu quả thì việc lựa
chọn cơ quan ĐKKD để thành lập hợp tác xã cần nhanh chóng phải được quy định lại cụ thể.
Trong thời gian tới, cần tăng cường hơn nữa khả năng và đề cao hơn nữa công tác hậu kiểm doanh nghiệp. Vì cùng với xu thế tạo thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp, các cơ quan ĐKKD, cơ quan thuế và các cơ quan hữu quan phải tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký. Có như vậy mới đảm bảo duy trì được môi trường kinh doanh vừa thông thoáng vừa an toàn.
Cần có cơ chế để các cán bộ ĐKKD có thể nắm bắt được hệ thống các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó nhằm hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân có yêu cầu ĐKKD. Phải khẳng định rằng việc hướng dẫn các tổ chức, cá nhân về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó là trách nhiệm của các cán bộ ĐKKD. Do đó, cán bộ ĐKKD cùng với các cơ quan hữu quan cần sớm hệ thống hoá toàn bộ các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó để có cơ sở phục vụ tốt hơn công tác ĐKKD. Đồng thời thường xuyên rà soát và hệ thống hoá các điều kiện kinh doanh và văn bản quy phạm pháp luật về ĐKKD đã hết hiệu lực và mới được ban hành.
Từ thực trạng quản lý tên doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đã đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao tính chuyên nghiệp và hiện đại tại các cơ quan ĐKKD. Bên cạnh việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ ĐKKD cần thiết lập một hệ thống thông tin thống nhất trong cả nước về các nội dung liên quan đến ĐKKD.
Nâng cao hơn nữa hệ thống thông tin, cơ sở vật chất lưu giữ thông tin và cập nhật thường xuyên những thông tin thay đổi về ĐKKD. Điều cần thiết là phải thành lập được một trung tâm toàn quốc để tập hợp được thông tin của
tất cả các doanh nghiệp đã ĐKKD. Các cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện có thể rễ ràng cập nhật thông tin và tra cứu những thông tin về các doanh nghiệp đã đăng ký nhằm phục vụ tốt hơn công tác ĐKKD. Hoàn thiện hệ thống thông tin ĐKKD theo hướng thống nhất, tập trung, hỗ trợ có hiệu quả cho doanh nghiệp trong việc bảo vệ tên của doanh nghiệp, cung cấp thông tin gia nhập thị trường và rút lui khỏi thị trường trên một công báo doanh nghiệp duy nhất. Việc ban hành công báo về doanh nghiệp sẽ vừa giúp chính thức hoá hoạt động của doanh nghiệp đồng thời giúp công khai hoá các doanh nghiệp không còn hoạt động trên thị trường.
Nghị định số 88/2006/NĐ-CP đã đưa ra nội dung chuẩn bị phát hành tờ Thông tin doanh nghiệp (điểm đ khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 88) để thực hiện đăng bố cáo thành lập, thay đổi nội dung ĐKKD, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, giải thể, phá sản và các trường hợp vi phạm của các doanh nghiệp trên toàn quốc. Đây chắc chắn là một ý tưởng cần phải được nhanh chóng triển khai trên thực tế. Tuy nhiên, điều mà doanh nghiệp quan tâm đó là chi phí và thủ tục cho việc công khai này hiện tại vẫn chưa được công bố. Việc công bố thông tin trên một tờ Thông tin về doanh nghiệp thống nhất sẽ là việc nên làm nhưng nếu chi phí cho việc này quá cao, hoặc thủ tục tiến hành việc này quá phiền hà và mất nhiều thời gian thì giá trị của việc làm này là không lớn.
Theo chúng tôi, song song với việc ấn hành tờ Thông tin doanh nghiệp vẫn nên xây dựng một hệ thống thông tin trên mạng Internet thường xuyên cập nhật hàng tháng những thay đổi trong nội dung ĐKKD của doanh nghiệp cũng như việc đăng ký thành lập doanh nghiệp mới. Việc làm này sẽ có hiệu quả và tốn ít chi phí thực hiện cho cả các cơ quan Nhà nước muốn cập nhật thông tin cũng như các doanh nghiệp muốn tiếp cận thông tin.