bò sữa và mối liên kết giữa nhà máy với người nuôi bò sữa. Đối với công tác giống, Tỉnh đã tiến hành cải tạo giống bò thịt theo hướng lai Zebu (Sind hóa bò vàng); chọn giống bò sữa thuần chủng và nhân giống bằng phương pháp thụ tinh giới tính. Cùng với công tác giống, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo nghiên cứu, tuyển chọn và đưa vào trồng các loại cỏ cao sản, các giống cây họ đậu làm thức ăn cho bò, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc và chế biến thức ăn cho bò. Đặc biệt, để tăng diện tích trồng cỏ, Tỉnh đã khuyến khích nông dân thực hiện chuyển đổi diện tích trồng lúa và các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp sang trồng thâm canh cỏ làm thức ăn cho bò. Nhờ thế, đến
năm 2015, diện tích trồng cỏ chăn nuôi bò sữa và bò thịt trên toàn tỉnh đạt
khoảng 2.610 ha. Thu nhập của nông dân chuyển từ trồng lúa sang trồng cỏ cao sản tăng từ 70 triệu đồng/ha/năm lên 240 triệu đồng/ha/năm. Ngoài chăn
nuôi theo quy mô hộ gia đình,
tỉnh
Lâm Đồng đã thực hiện nhiều cơ chế,
chính sách ưu đãi để thu hút các doanh nghiệp đầu tư chăn nuôi theo quy mô công nghiệp và chế biến sữa. Đến năm 2015, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có một số doanh nghiệp và trang trại chăn nuôi theo quy mô từ hàng trăm tới hàng ngàn con bò như Công ty Vinamilk, Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt, Công
ty Bò sữa Lâm Đồng,… cùng con/hộ trở lên.
572 hộ
Có thể bạn quan tâm!
- Đảng Bộ Tỉnh Lâm Đồng Chỉ Đạo Đẩy Mạnh Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao (2010 2015)
- /6/2013) Và Quy Hoạch Chi Tiết Xây Dựng Khu Cnsh Và Nông Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao Đà Lạt, Tỷ Lệ 1/500 (Quyết Định Số 2097/qđubnd,
- Đẩy Mạnh Chuyển Đổi Cơ Cấu Giống Và Ứng Dụng Kỹ Thuật Công Nghệ Hiện Đại Đối Với Các Loại Cây Trồng, Vật Nuôi Chủ Đạo
- Đầu Tư Cơ Sở Hạ Tầng Và Đào Tạo, Phát Triển Nguồn Nhân Lực Về Đầu Tư Xây Dựng, Phát Triển Cơ Sở Hạ Tầng Nông Nghiệp, Nông Thôn:
- Nhận Xét Quá Trình Đảng Bộ Tỉnh Lâm Đồng Lãnh Đạo Phát
- Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao từ năm 2004 đến năm 2015 - 20
Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.
chăn nuôi bò sữa với quy mô từ 10
Đồng hành cùng người chăn nuôi, Sở NN&PTNT cùng với chính quyền và Hội Nông dân các địa phương đã xúc tiến thành lập các HTX, tổ hợp tác chăn nuôi bò sữa như Tổ hợp tác Cầu Sắt (huyện Đơn Dương) gồm 65 nông
hộ, Tổ hợp tác Hiệp Thạnh (huyện Đức Trọng) gồm 94 nông hộ; một số
doanh nghiệp tham gia liên minh sản xuất với các hộ nông dân như Công ty
cổ phần sữa Đà Lạt (Dalatmilk). Các sở, ban, ngành, địa phương đã thực
hiện các chính sách, giải pháp nhằm hỗ trợ tiêu thụ và chế biến sản phẩm
sữa. Nhờ thế, đến năm 2015, trên địa bàn toàn tỉnh đã có 3 doanh nghiệp
thành lập các điểm thu mua sữa bò tươi nguyên liệu với số lượng không hạn chế gồm: Công ty Vinamilk, Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt và Công ty Sữa Dutch Lady (Cô gái Hà Lan); đồng thời xây dựng một nhà máy chế biến sữa đạt công suất 40 tấn/ngày. Với sự chỉ đạo có hiệu quả của Đảng bộ tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, địa phương, ngành chăn nuôi bò sữa, bò thịt đã đạt được nhiều thành tựu. Đến năm 2015, quy mô đàn bò lai Zêbu đạt 37.970 con, chiếm 60% tổng đàn bò (vượt 10% so với kế hoạch), đàn bò sữa đạt hơn 17.200 con, gấp 4 lần so với năm 2010” [132, tr.1]; năng suất sữa từ 4.200 kg/chu kỳ (300 ngày) lên 6.000 kg/chu kỳ. Nhờ thế, Lâm Đồng trở thành địa phương có quy mô đàn bò và sản lượng sữa cao thứ 3 cả nước
(sau Nghệ
An và Thành phố
Hồ Chí
Minh). Ngành chăn nuôi bò sữa của
Tỉnh đã phát triển từ
địa bàn truyền thống như
Đơn Dương, Đức Trọng,
Bảo Lộc lan rộng sang các địa phương khác như Lâm Hà, Đam Rông.
Qua kiểm chứng về tính hiệu quả của các mô hình nuôi cá nước lạnh thử nghiệm, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã chủ trương đưa cá nước lạnh vào đối tượng ứng dụng công nghệ cao và coi đó là ngành hàng thủy sản chính của
địa phương. Quán triệt chủ
trương của Tỉnh
ủy,
tại Quyết
định số
2781/QĐUBND về Phê duyệt quy hoạch phát triển nuôi cá nước lạnh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 (ngày 28/12/2012), UBND tỉnh đã xác định nội dung chỉ đạo về công tác quy hoạch nuôi cá nước lạnh trên những địa bàn phù hợp (có độ cao từ 500m trở lên), đồng thời xác định các giải
pháp về chọn, lai tạo và sản xuất giống cá nước lạnh phù hợp với điều
kiện địa phương. Đối với công tác nuôi trồng, Tỉnh đã ban hành các quy trình sản xuất thức ăn, phòng chống dịch bệnh trên cá nước lạnh; ứng dụng
công nghệ kỹ thuật nuôi, bảo quản và vận chuyển sản phẩm; phát triển
công nghiệp chế biến, xây dựng và phát triển thương hiệu. Ngoài việc kêu
gọi các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nuôi cá nước lạnh thương phẩm, tỉnh Lâm Đồng cũng đã triển khai một số đề tài khoa học phục vụ cho sự phát triển của nghề này một cách bền vững; trong đó đáng kể là các đề tài “Xây dựng quy trình kích thích sinh sản nhân tạo cá hồi vân tại Lâm Đồng”, “Nghiên cứu tìm hiểu tác nhân gây bệnh ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn trên cá hồi vân và cá tầm ở Lâm Đồng”, “Nghiên cứu công nghệ, hệ thống thiết bị đồng bộ nuôi các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao”, “Nghiên cứu phát triển nuôi cá tầm Nga và cá tầm Siberi tại các tỉnh vùng Tây Nguyên”,... Thực hiện đồng bộ các giải pháp của Đảng bộ tỉnh, đến năm 2015, toàn tỉnh có 50 ha diện tích nuôi cá nước lạnh với sản lượng toàn tỉnh đạt 500 tấn/năm (tăng hơn 100 tấn so với năm 2010). Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh đã có doanh
nghiệp
sản xuất được trứng cá thương phẩm và thực hiện
ấp nở
trứng
giống thành công [23, tr.122].
3.2.4. Tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
3.2.4.1. Nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ
Quán triệt sâu sắc quan điểm “khoa học và công nghệ là nguồn lực
quan trọng để
phát triển nhanh và bền vững”
[161, tr.1], Đảng bộ
tỉnh
Lâm Đồng đã đẩy mạnh chỉ đạo nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ
KHCN trong các lĩnh vực kinh tế. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, Đảng
bộ chỉ đạo: tập trung nghiên cứu và đẩy mạnh chuyển giao các tiến bộ
KHCN nhằm tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng cho các sản
phẩm nông nghiệp. Thực hiện sự
chỉ
đạo của
Đảng bộ
tỉnh, ngày
03/12/2010, UBND tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định 2797/QĐUBND
về Quy hoạch phát triển KHCN tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020, xác định
các nội dung, nhiệm vụ
và định hướng
ứng dụng KHCN trong các lĩnh
vực, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Trên cơ sở định hướng phát triển
KHCN chung, UBND tỉnh đã chỉ đạo cần tập trung đẩy mạnh công tác
nghiên cứu, khảo nghiệm, nhập khẩu các công nghệ mới tại các nước
nông nghiệp phát triển, đặc biệt là công nghệ sản xuất giống, công nghệ tưới nước tiết kiệm, công nghệ nhà kính và công nghệ sau thu hoạch để
tạo lập và nâng cao chuẩn giá trị trong sản xuất nông nghiệp; ứng dụng
thành tựu CNSH trong chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong canh tác và bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế biến; đầu tư, nâng cấp các cơ sở nghiên cứu, chọn tạo, sản xuất giống
cây trồng vật nuôi, khuyến khích các thành phần kinh tế
đầu tư
sản xuất
giống cây trồng ứng dụng công nghệ invitro để tạo ra giống sạch bệnh [161, tr.11].
Để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chuyển giao KHCN vào sản xuất
nông nghiệp
ứng dụng công nghệ
cao, tỉnh Lâm Đồng thực hiện nhiều
chính sách hỗ trợ như Chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến
bộ KHCN phục vụ phát triển KTXH nông thôn và miền núi tỉnh Lâm
Đồng giai đoạn 2011 2015; Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp về KHCN trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2011 2015, dành 60% kinh phí KH CN tập trung cho nghiên cứu nông nghiệp, nông thôn; đồng thời chú trọng
hợp tác với các cơ
quan, viện nghiên cứu và các trường
học, các tổ chức
quốc tế
để triển khai các đề
tài, dự
án nghiên cứu, chuyển giao KHCN.
Trong giai đoạn 2010 2015, đã thực hiện được 53 đề tài, dự án nghiên cứu, chuyển giao KHKT, xây dựng được 599 mô hình thử nghiệm, trình diễn và mô hình điểm về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thông qua việc đẩy mạnh chuyển giao công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, nhiều công nghệ mới đã được nghiên cứu, phát minh, nhập khẩu và đưa vào ứng dụng trong thực tế như công tác lai tạo giống và ứng dụng CNSH trong sản xuất giống nuôi cấy mô để tạo ra các nguồn giống chất lượng cao và sạch bệnh;
nhiều thiết bị công nghệ được đầu tư vào sản xuất như máy gieo hạt, nhà kính hiện đại, công nghệ thông tin điều khiển tự động, công nghệ đóng gói bao bì, máy móc phân loại nông sản và xử lý sau thu hoạch, công nghệ bảo
quản hoa khô
[74, tr.3]. Các công nghệ được
chuyển giao và áp dụng theo
từng nhóm đối tượng cây trồng, vật nuôi cụ thể. Đặc biệt, đến năm 2014,
Tỉnh đã xây dựng và ban hành quy định tạm thời các tiêu chuẩn về nhà kính, nhà lưới; Ban hành quy định tạm thời về tiêu chí sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với một số cây trồng, vật nuôi chủ lực trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng [Phụ lục 2].
3.2.4.2. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất và các mối liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Về xây dựng, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất:
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy về đổi mới quan hệ sản xuất và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn theo hướng tạo mọi điều kiện để phát triển kinh tế hộ, khuyến khích phát
triển kinh tế
trang trại, đổi mới phát triển
HTX, tổ
hợp tác,
UBND tỉnh
Lâm Đồng đã xây dựng các đề
án thực hiện như Đề
án đổi mới và phát
triển kinh tế trang trại tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2012 2015 và định
hướng đến năm 2020
(Quyết định số
2286/QĐUBND, ngày 01/11/2012),
Đề án đổi mới và phát triển kinh tế tập thể tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2012
2015 (Quyết định số
2335/QĐUBND, ngày 09/11/2012). Tỉnh đã chỉ
đạo
thực hiện các giải pháp về đất đai, tín dụng, đào tạo, xây dựng thương hiệu, chuyển giao KHKT nhằm phát triển quy mô, số lượng, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế trang trại và tập thể trong sản xuất, dịch vụ nông nghiệp nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Sau 5 năm thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy,
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã có 02 liên hiệp HTX và127 HTX nông nghiêp,
với tổng quy mô 2.409 ha; trong đó có 11 HTX sản xuất, chăn nuôi ứng dụng
công nghệ cao với tổng diện tích đạt 720 ha trên cây rau, hoa, chè, cà phê và quy mô 2.060 con bò sữa [214, tr.14].
Cùng với đổi mới và phát triển kinh tế
tập thể, Tỉnh
ủy Lâm Đồng
còn chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đồng thời chỉ đạo: Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy vai trò trong sản xuất, cung ứng vật tư, kỹ thuật, tiêu thụ nông sản. Triển khai nội dung chỉ đạo
của Tỉnh
ủy,
UBND tỉnh đã ban hành Kế
hoạch,
chương trình trợ
giúp
doanh nghiệp nhỏ
và vừa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
(Quyết định số
2366/QĐUBND, ngày 14/10/2010), Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2011 2015 (Báo cáo số 124/BCUBND, ngày 01/9/2011), xác định các nhóm giải pháp ưu đãi, hỗ trợ về khung pháp lý, giải phóng mặt bằng, tiếp cận nguồn vốn, mở rộng thị trường, đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển
doanh nghiệp
nhỏ
và vừa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong những năm
2011 2015. Bên cạnh những giải pháp đồng bộ, UBND tỉnh còn ban hành
các chương trình, kế
hoạch hỗ
trợ
nhằm tháo gỡ
khó khăn cho doanh
nghiệp trên từng lĩnh vực cụ thể như Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
về KHCN trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn giai đoạn 2011 2015
(Quyết định số
1263/QĐUBND, ngày 07/6/2011),
Quy định hỗ
trợ
các
doanh nghiệp và HTX đào tạo nghề cho người lao động trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng
(Quyết định số
56/2013/QĐUBND, ngày 05/12/2013);
hỗ trợ
doanh nghiệp trong áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP (theo Quyết định số 67/2014/QĐUBND, ngày 10/12/2014); ưu đãi
về thuế
thu nhập doanh nghiệp
với mức
25% theo Nghị
định số
124/2008/NĐCP của Chính phủ; hỗ trợ tư vấn cung cấp thông tin, phát triển thị trường, đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu; hỗ trợ tài chính thông qua chính sách Hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp vay vốn ứng dụng nông nghiệp công
nghệ
cao và chế
biến nông, lâm sản, vật liệu xây dựng
(Quyết định số
2481/STCNS, ngày 05/11/2012) và Triển khai Chương trình kết nối ngân
hàng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
(Kế
hoạch 2667/KH
UBND, năm 2014). Cùng với những chính sách ưu đãi, tỉnh Lâm Đồng đã chú trọng công tác cải cách thủ tục hành chính, triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”; trong đó tập trung triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 2008, quan tâm tháo gỡ khó khăn vướng mắc, nhất là về đất đai, tiếp cận vốn để đẩy nhanh tiến độ các dự án. Đặc biệt, tỉnh Lâm Đồng đã chỉ đạo thực hiện chương trình đối thoại doanh nghiệp theo hình thức đối thoại trực tiếp giữa chính quyền (UBND,
sở, ban, ngành) doanh nghiệp ngân hàng thương mại theo định kỳ 6
tháng/lần. Nhờ thế, trong những năm 2010 2015, trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng đã thu hút 1.425 doanh nghiệp trong nước và 77 doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư 266.353.181 USD trong lĩnh vực nông nghiệp; huy động được 22.575.980 triệu đồng đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao [73, tr.7].
Về liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản:
Nhằm khắc phục tình trạng “được mùa, mất giá” trong sản xuất nông
nghiệp, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hợp
tác, liên kết trong sản xuất gắn với tiêu thụ
nông sản. Thực hiện sự
chỉ
đạo của Tỉnh
ủy,
UBND tỉnh đã ban hành
Đề án phát triển thương mại
nông thôn giai đoạn 2010 2015 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (Quyết định số 885/QĐUBND, ngày 15/4/2011), xác định hai mô hình tiêu thụ nông sản và
cung
ứng vật tư
phục vụ
sản xuất nông nghiệp: Doanh nghiệp
HTX
nông dân; doanh nghiệp hộ kinh doanh nông dân. Hàng năm, Tỉnh bố trí ngân sách hỗ trợ cho các nông hộ sản xuất chứng nhận VietGAP; hỗ trợ nâng cấp nhà xưởng sơ chế, chế biến nông sản đảm bảo điều kiện an toàn
thực phẩm; hỗ trợ xúc tiến thương mại; đóng gói sản phẩm, chứng nhận HACCP, ISO. Đặc biệt, trong các tiêu chí xác định sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với cây trồng, vật nuôi chủ lực, Tỉnh đã xác
định tiêu chí “thực hiện sản xuất và tiêu thụ theo chuỗi liên kết” là một
trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu [Phụ lục 2]. Nhờ thế, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã hình thành nhiều liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp với HTX, tổ hợp tác và nông dân để sản xuất và tiêu thụ các loại nông sản hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước. Liên kết sản xuất, tiêu thụ giữa doanh nghiệp với nông dân theo phương thức: Doanh nghiệp đầu tư
vốn, giống, kỹ
thuật canh tác và tiêu thụ
sản phẩm đầu ra; nông dân lao
động trực tiếp trên đất của mình và chịu trách nhiệm sản xuất nông sản theo hợp đồng đã ký kết. Mô hình liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện thông qua tổ hợp tác. Tiêu biểu như Tổ hợp tác Hoa cắt cành liên kết với Công ty Đà Lạt Hasfarm, Tổ hợp tác Rau, hoa an toàn Đa Thành liên kết với Công ty Khánh Khang, Tổ hợp tác sản xuất Trà Phúc Thọ liên kết với Công ty Trà Long Đỉnh, Tổ hợp tác Hương Sắc liên
kết với Công ty Hoa Mặt Trời,… Cùng với thực hiện liên kết giữa nông
dân với doanh nghiệp, Lâm Đồng còn mở rộng liên kết sản xuất và tiêu
thụ
nông sản hàng hóa
thông qua chương trình hợp tác thương mại
với
Thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, các tỉnh Duyên
hải
miền
Trung và Tây Nguyên. Qua đó, góp phần quảng bá thương hiệu nông sản Đà Lạt Lâm Đồng và mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa, đặc biệt là khu
vực Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2015, có khoảng 60% sản lượng
ứng dụng công nghệ
cao được tiêu thụ
qua hợp đồng, cao hơn nhiều so
với với bình quân chung toàn tỉnh (30%). Trên địa bàn tỉnh đã hình thành 54 chuỗi, trong đó có 30 chuỗi rau quả với quy mô 1.562 hộ, 17 chuỗi chè
với quy mô 117 hộ, 03 chuỗi hoa với quy mô 117 hộ và 04 chuỗi chăn