phòng, lãnh đạo xây dựng Đảng bộ Quân chủng PK - KQ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; Lãnh đạo mọi mặt các đơn vị thuộc quyền; Nghiên cứu đề xuất với cấp ủy cấp trên những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác đảng, công tác chính trị [14, tr. 7-8].
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 20/7/2005; Nghị quyết số 513-NQ/ĐU, ngày 17/11/2005, của Đảng ủy Quân sự Trung ương Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Trong các nghị quyết trên quy định chức năng, nhiệm vụ của các TCCSĐ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có TCCSĐ của Đảng bộ Quân chủng PK - KQ: Một là, nghiên cứu, đề xuất với cấp ủy cấp trên nội dung biện pháp để thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, cơ yếu và những chủ trương về công tác đảng, công tác chính trị; Hai là, lãnh đạo đơn vị chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của đảng ủy, mệnh lệnh của cấp trên, nghị quyết của đại hội đảng bộ và nghị quyết của cấp ủy cấp mình, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao; Ba là, lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đơn vị có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; Bốn là, xây dựng các TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao; Năm là, lãnh đạo nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị; lãnh đạo công tác kiểm tra giám sát; Sáu là, lãnh đạo nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo, trình độ sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của đơn vị; lãnh đạo xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện. [14, tr. 16 - 17].
Như vậy, tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quân chủng PK - KQ có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước vào cơ quan, đơn vị cơ sở; đưa chủ trương, chính sách, nghị quyết, mệnh lệnh, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng bộ, Bộ Tư lệnh Quân chủng PK - KQ tới cán bộ, đảng viên, quân
nhân trong các cơ quan, đơn vị toàn Quân chủng. Tuyên truyền, giáo dục và vận động cán bộ, đảng viên, quân nhân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, kịp thời kiểm tra uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, quân nhân trong các cơ quan, đơn vị toàn Quân chủng; trực tiếp lãnh đạo xây dựng cơ quan, đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cấp trên giao.
2.1.1.3. Thực trạng công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Quân chủng Phòng không - Không quân trước năm 2005
Sau khi sáp nhập hai Quân chủng thành một, đến trước năm 2005, TCCSĐ được Đảng ủy Quân chủng PK - KQ chỉ đạo cơ cấu lại, kiện toàn bộ máy tổ chức của Đảng bộ. Đến năm 2005 về tổ chức đảng, toàn Đảng bộ Quân chủng PK - KQ có 1.620 tổ chức đảng, trong đó có 17 tổ chức đảng cấp trên cơ sở, 19 TCCSĐ 3 cấp (gồm có đảng ủy cơ sở, đảng ủy bộ phận và chi bộ), 128 TCCSĐ 2 cấp (gồm có đảng ủy cơ sở và chi bộ), 113 TCCSĐ 1 cấp (gồm có chi bộ cơ sở), 50 đảng bộ bộ phận, 1.293 chi bộ, trong đó có 970 chi bộ có chi ủy. Tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ hơn 20.553, tỷ lệ lãnh đạo 43,19% [27, tr. 110]. Trong quá trình xây dựng TCCSĐ, Đảng bộ Quân chủng nhiệm kỳ 2000 - 2005 đã đạt được những kết quả như sau:
Về ưu điểm:
Về công tác chính trị, tư tưởng: Trước những biến động của tình hình thế giới, khu vực và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mới, các cấp ủy đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng, chú trọng tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường công tác thông tin, bồi dưỡng cán bộ đảng viên về đường lối, chủ trương của Đảng, các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của địa phương, đơn vị; đấu tranh ngăn chặn những lệch lạc, những biểu hiện sai trái trên các mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và trong toàn Quân chủng.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Công Tác Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng Trong Quân Đội Và Quân Chủng Phòng Không - Không Quân
- Khái Quát Kết Quả Nghiên Cứu Của Các Công Trình Đã Công Bố Có Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án
- Vị Trí, Vai Trò Của Tổ Chức Cơ Sở Đảng Và Thực Trạng Của Công
- Chủ Trương Của Đảng Bộ Quân Đội Về Công Tác Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng (2005 - 2010)
- Chủ Trương Của Đảng Bộ Quân Chủng Phòng Không - Không Quân Về Lãnh Đạo Công Tác Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng (2005 - 2010)
- Đảng Bộ Quân Chủng Phòng Không - Không Quân Chỉ Đạo Công Tác Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng (2005 - 2010)
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về tổ chức: Xây dựng, củng cố TCCSĐ, trong sạch, vững mạnh được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt của các cấp ủy và được thực hiện thường xuyên, có nhiều chuyển biến tích cực. Các cấp ủy đã xây dựng quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ cấp ủy viên; xây dựng chương trình thực hiện nghị quyết. Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các TCCSĐ các cấp, nhất là ở cơ sở. Đảng ủy Quân chủng đã tập trung chỉ đạo việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, giải quyết cơ sở đảng yếu kém, nhất là ở đơn vị cơ sở vùng sâu, vùng xa. Chất lượng TCCSĐ hàng năm tăng, tỷ lệ cơ sở đảng trong sạch vững mạnh năm 2000 là 66,45%, năm 2005 là 76,96%, cơ sở đảng yếu kém giảm từ 3,49% năm 2000 còn 1,41% năm 2005. Hầu hết các TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh phát huy được vai trò của tổ chức đảng, thực sự là hạt nhân ở đơn vị cơ sở [79, tr.15].
Các TCCSĐ luôn xây dựng được quy chế hoạt động; do đó, đã thể hiện rõ chức năng lãnh đạo của cấp ủy. Bên cạnh đó đã duy trì và thực hiện tốt chế độ giao ban, kiểm tra công tác, làm việc có chương trình, kế hoạch. Công tác lãnh đạo, triển khai sơ kết, tổng kết kịp thời, tạo nhân tố mới có sức thuyết phục.
Về công tác cán bộ và xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên: Công tác cán bộ: Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng đã có Nghị quyết số 39-NQ/ĐU, ngày 12/3/2002, về phân cấp quản lý cán bộ, trên cơ sở đó cấp ủy từ Quân chủng đến đơn vị cơ sở đã xây dựng quy hoạch cán bộ. Trình độ năng lực của cán bộ chủ chốt được nâng lên, đảm nhiệm được yêu cầu nhiệm vụ mới trong điều kiện phải sắp xếp bộ máy gọn nhẹ. Thực hiện đúng chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác cán bộ, sắp xếp bố trí ổn định tổ chức một số đơn vị, phòng, ban cho phù hợp với nhiệm vụ mới. Công tác cán bộ được thực hiện theo đúng quy định của Trung ương Đảng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bố trí, sử dụng, phân công, điều động.
Về công tác kiểm tra, giám sát: Đảng ủy Quân chủng đã tập trung vào việc kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, chấp hành các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Kết hợp tổ chức kiểm tra theo chuyên đề. Đã kiểm tra 72 lượt cấp ủy cơ sở, 1.400 lượt đảng viên trong việc chấp hành nguyên tắc sinh hoạt Đảng; kiểm tra 1.600 lượt đảng viên trong việc thu nộp đảng phí, qua kiểm tra đã giúp tổ chức đảng và đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót tồn tại. Đã xử lý kỷ luật 135 đảng viên bằng các hình thức: Khiển trách 61 đồng chí, cảnh cáo 64 đồng chí, cách chức 06 đồng chí, khai trừ 04 đồng chí, sai phạm chủ yếu của đảng viên bị xử lý kỷ luật là: Vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, một số vi phạm nguyên tắc quản lý kinh tế, quản lý đất quốc phòng. Đã cảnh cáo 01 Đảng ủy Tiểu đoàn 105 (thuộc Sư đoàn 363), vì lý do mất an toàn để thất thoát vũ khí quân dụng; 01 Đảng ủy Trung đoàn 916 (thuộc Sư đoàn 371), vì lý do mất an toàn bay làm phi công hy sinh trong quá trình huấn luyện bay, nhảy dù; 01 Đảng ủy Lữ đoàn 28, trực thuộc Đảng bộ Quân chủng, lý do mất đoàn kết nội bộ trong Đảng ủy Lữ đoàn.
Đã thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo Đảng ủy Tiểu đoàn 105 và cách chức 02 cán bộ chủ trì Tiểu đoàn; Thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Đảng ủy Trung đoàn 916 và điều động công tác 02 cán bộ phụ trách công tác an toàn bay; Thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Đảng ủy Lữ đoàn 28 và điều động thuyên chuyển công tác 02 cán bộ chủ trì của Lữ đoàn 28 [79, tr. 21].
Việc xử lý kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng được tiến hành theo đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục và quy trình. Hoạt động kiểm tra và giám sát đã góp phần duy trì và giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, hạn chế những sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong các TCCSĐ.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng: Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cơ sở đã từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo, bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ sở, xây dựng chương trình công tác, quy chế làm việc, cụ thể hoá các mối quan hệ giữa cấp uỷ Đảng, chính quyền và
các đoàn thể tổ chức quần chúng, thực hiện tốt việc phân công cấp uỷ viên, đảng viên phụ trách công việc và định kỳ kiểm tra, bổ sung tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Duy trì giao ban, quy chế phối hợp và thời gian sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ hàng tháng, không kể đột xuất. Từng bước đưa công tác phản ánh, thông tin báo cáo đi vào nền nếp, từ chi bộ lên đảng uỷ cơ sở. Duy trì thời gian, nội dung sinh hoạt chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở, có sự đổi mới về nội dung sinh hoạt chi bộ theo hướng cụ thể, thiết thực phù hợp với từng loại hình chi bộ, góp phần đổi mới nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ và đội ngũ đảng viên.
Đạt được những kết quả trên có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chính là do cấp ủy các cấp đã quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng, trước hết là các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và thường xuyên, trực tiếp là những quan điểm chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương; đồng thời biết vận dụng vào điều kiện cụ thể thực tiễn của Quân chủng PK - KQ.
Một số hạn chế trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng: Thời gian đầu sau khi sáp nhập đội ngũ cán bộ, đảng viên của nhiều TCCSĐ chưa đảm bảo được về số lượng, cơ cấu, trình độ, độ tuổi, lại trong tình trạng bị hụt hẫng về tâm lý, lo lắng vì có sự xáo trộn. Nhiều đơn vị có biểu hiện mất đoàn kết, chia rẽ, cục bộ địa phương, có biểu hiện làm sai quy định, quy trình trong công tác cán bộ... Tư tưởng bảo thủ trong cán bộ, đảng viên vẫn còn rõ nét. Điều kiện, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động công tác đảng, công tác chính trị còn thiếu thốn, phải làm việc ghép, chung địa điểm.
Năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của một số cấp ủy, TCCSĐ có mặt còn hạn chế, nhất là năng lực quán triệt, cụ thể hóa nghị quyết của cấp trên vào cấp mình, đề ra những giải pháp đột phá lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm, khắc phục dứt điểm khâu yếu, mặt yếu trong đảng bộ và đơn vị.
Một số cấp ủy, TCCSĐ thiếu chủ động, nhạy bén trong đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp lãnh đạo công tác tư tưởng, quản lý tư tưởng, nhất là khi tình hình nhiệm vụ có sự phát triển và biến đổi. Việc xử lý thông tin trước những quan điểm, tư tưởng sai trái còn lúng túng, thiếu sắc bén, kịp
thời. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, chất lượng sinh hoạt chi bộ mặc dù đã có chuyển biến tiến bộ nhưng vẫn là khâu yếu của nhiều cấp ủy, chi bộ. Biểu hiện dân chủ hình thức, bệnh thành tích, dấu diếm khuyết điểm, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, né tránh, ngại va chạm của cán bộ, đảng viên trong sinh hoạt đảng chậm được khắc phục.
Việc xây dựng quy chế làm việc của một số cấp ủy còn thiếu cụ thể trong giải quyết các mối quan hệ công tác của cấp ủy với người chỉ huy đứng đầu cơ quan đơn vị; người chỉ huy với bí thư cấp ủy ở loại hình cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học, đơn vị quản lý cơ sở vật chất và doanh nghiệp có nơi, có việc chưa nhận thức rõ phạm vi lãnh đạo, quyền hạn, trách nhiệm, do vậy còn lúng túng trong xử lý những vấn đề cụ thể.
Ở loại hình đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, quản lý cơ sở vật chất và tài chính, năng lực tiến hành công tác xây dựng đảng và công tác xây dựng TCCSĐ của một số bí thư, phó bí thư còn hạn chế. Ở một số đảng bộ cơ sở 3 cấp và 2 cấp chưa thực sự phát huy tốt vai trò của chi bộ trong thực hiện nghị quyết của Đảng ủy. Trong xem xét vai trò cá nhân, có nơi chỉ gắn vai trò cá nhân với cương vị, chức trách về chính quyền, mà chưa chú ý đến trách nhiệm cấp ủy viên và nhiệm vụ cấp ủy phân công.
Việc đánh giá chất lượng đảng viên, tổ chức đảng một số nơi chưa phản ánh đúng chất lượng dẫn đến tình trạng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh nhưng đơn vị vẫn còn xảy ra những vụ việc vi phạm; việc khen thưởng TCCSĐ có thành tích xuất sắc vẫn còn biểu hiện xem nhẹ về tiêu chuẩn.
Một số TCCSĐ còn biểu hiện chủ quan, giản đơn trong quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên; chưa coi trọng công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên, do đó chưa kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, xử lý vi phạm và giải quyết có hiệu quả những vấn đề nảy sinh; việc thực hiện Quy định số 76- QĐ/TW, của Bộ Chính trị (khóa IX), ở một số cơ quan, đơn vị còn hình thức, hiệu quả thấp [79, tr.19].
Năm 2004 Đảng bộ Quân chủng PK - KQ còn 0,55% TCCSĐ yếu kém (tăng 0,05% so với năm 2001)
Nguyên nhân của những hạn chế
Do hai Quân chủng Phòng không và Không quân mới được sáp nhập thành Quân chủng PK - KQ từ năm 1999 đến trước năm 2005, do đó Đảng bộ Quân chủng chưa tổ chức được đại hội đảng các cấp, mà Đảng ủy Quân chủng là Đảng ủy lâm thời do Quân ủy Trung ương chỉ định. Nội bộ các tổ chức trong toàn Đảng bộ chưa được ổn định, các TCCSĐ cũng đang trong quá trình kiện toàn và xác định nhiệm vụ trong bối cảnh mới. Cũng vì thế, nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, cán bộ chủ trì, thủ trưởng đơn vị về vị trí, chức năng nhiệm vụ của TCCSĐ và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ còn hạn chế. Một số cấp ủy chưa thật sự quan tâm đầy đủ đến công tác xây dựng TCCSĐ. Nội dung, biện pháp xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh còn thiếu cụ thể; thiếu các giải pháp đồng bộ, thiết thực trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ, chi bộ cơ sở. Năng lực của một số cán bộ chuyên trách làm công tác xây dựng Đảng, xây dựng TCCSĐ còn hạn chế, chưa ngang tầm nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên và cơ quan chức năng chưa thường xuyên; sự phối hợp giữa các cơ quan cấp trên trong chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra giúp cơ sở khắc phục những khuyết điểm, khó khăn vướng mắc có nơi, có lúc còn thiếu đồng bộ.
Thực trạng công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác xây dựng TCCSĐ của Quân chủng PK - KQ nói riêng trước năm 2005 đều gắn liền với trách nhiệm của cấp uỷ Đảng các cấp. Những khó khăn tác động tới công tác xây dựng TCCSĐ trong quá trình xây dựng Đảng nói chung và xây dựng TCCSĐ nói riêng là cơ sở, cứ liệu thực tế để Đảng bộ Quân chủng PK - KQ đề ra chủ trương, biện pháp, chương trình hành động cụ thể để thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng TCCSĐ trong những năm 2005 - 2010 góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Quân chủng PK - KQ và Quân đội.
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ Quân đội về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
2.1.2.1. Chủ trương của Đảng về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Năm năm (2001 - 2005), trong quá trình lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây
dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, chú trọng cơ sở và địa bàn trọng yếu, nhờ đó đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy vậy, cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức còn diễn ra nghiêm trọng. Nhiều TCCSĐ bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng còn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao [53, tr. 47-48].
Tiếp tục xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” trong bối cảnh đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X (2006) xác định chủ trương về xây dựng Đảng như sau:
Phương hướng, mục tiêu
Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân [53, tr. 279].
Nhiệm vụ và giải pháp
Mộtlà,xâydựngtổchứccơsởđảngvữngmạnhvềchínhtrị,tưtưởng
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là