Thực Trạng Công Tác Xây Dựng Đảng Ở Đảng Bộ Huyện Yên Mô Trước Năm 2001

Mô còn là quê hương của nhiều làng nghề truyền thống như: nghề mộc ở Côi Trì, nề ở Bình Hải, dệt vải, làm thảm ở Nộn Khê, đan chài lưới ở Yên Lâm, đan lát mây tre ở Yên Phú, làm bún ở Khánh Dương, làm gạch ở Yên Phong, Khánh Thịnh… nhiều sản phẩm của Yên Mô có tiếng trong nước.

Tình hình tôn giáo ở huyện Yên Mô trước năm 2001 về cơ bản là ổn định, nhìn chung không xảy ra các hiện tượng phức tạp. Trên địa bàn huyện có 2 loại tôn giáo đang hoạt động là đạo Phật và đạo Thiên chúa. Một bộ phận giáo dân đạo Thiên chúa đã tham gia vào tổ chức cơ sở Đảng, phát huy được tính tiên phong của đảng viên trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Như vậy, trình độ kinh tế, dân trí và trình độ văn hóa – xã hội của cư dân Yên Mô có sự phát triển khá. Thu nhập và đời sống của đa số dân cư trước năm 2001 đã được cải thiện và nâng cao đáng kể. Đặc điểm nổi trội của con người Yên Mô là truyền thống lao động cần cù, vượt lên mọi khó khăn để phát triển sản xuất, là truyền thống hiếu học, tinh thần đoàn kết, giàu lòng nhân ái, mến khách và giàu sức sáng tạo trong phát triển kinh tế, mở mang văn hóa – xã hội. Đây là một nguồn lực đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

1.1.2. Thực trạng công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Yên Mô trước năm 2001

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Ninh Bình, ngày 10/8/1948, Đại hội Đảng bộ huyện Yên Mô lần thứ nhất đã được tổ chức tại đình Đông (Côi Trì - Yên Mỹ). Tại thời điểm này toàn Đảng bộ có hơn 2000 đảng viên. Đại hội đã bầu BCH Đảng bộ huyện (khoá I) gồm 9 uỷ viên. Đồng chí Lê Văn Dung được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Đến tháng 8/1948, ở Yên Mô các xã đều thành lập được chi bộ Đảng. Trong đó, “xã Đại Đồng 286 đảng viên, xã Thanh Bình 293 đảng viên, xã Yên Mạc 171 đảng viên, xã Hà Trung 214 đảng viên” [7, tr. 58].

Từ cuối năm 1956, cùng với cả nước, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 BCHTW Đảng (khoá II), Huyện uỷ Yên Mô đã chỉ đạo các cấp các ngành tiến hành sửa sai trong cải cách ruộng đất. Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng càng được Đảng bộ quan tâm. Công tác kiểm tra, giữ gìn kỉ luật trong Đảng được tăng cường. Cũng trong năm này có 23 đảng viên bị xử lý kỷ luật, 17 đảng viên bị cảnh cáo, 6 đảng viên bị khai trừ ra khỏi tổ chức Đảng. Trung tuần tháng 10/1961, Đảng

bộ huyện Yên Mô họp Đại hội lần thứ VI, đồng chí Lương Văn Nhân được bầu làm Bí thư Huyện uỷ.

Thực hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 40 của Ban Bí thư TW Đảng, từ quý I năm 1963, “Đảng bộ huyện Yên Mô triển khai cuộc vận động xây dựng “chi bộ 4 tốt”, “đảng viên 4 tốt” [7, tr. 121]. Sau một năm thực hiện cuộc vận động, chất lượng đảng viên và TCCSĐ tăng lên rõ rệt. Toàn huyện có 16 TCCSĐ, 80% đạt tiêu chuẩn bốn tốt; 85,6% số đảng viên đạt tiêu chuẩn bốn tốt. Trong 4 năm 1961-1964, toàn Đảng bộ kết nạp 915 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ lên 4 203 đồng chí.

Tháng 6/1967, Đại hội Đảng bộ huyện Yên Mô lần thứ IX được tổ chức thành công. Năm 1969, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về tăng cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đảng bộ huyện đã tiến hành cuộc vận động thực hiện Chỉ thị 192 của Ban Bí thư TW nhằm nâng cao nhận thức chính trị, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, làm trong sạch TCCSĐ ngay từ cơ sở. Sau gần một năm thực hiện đã đạt được kết quả như sau: toàn Đảng bộ có 80% số TCCSĐ; 92% số đảng viên đạt tiêu chuẩn 4 tốt. Đảng bộ đã ngăn chặn, xử lý nghiêm hàng chục vụ việc sai trái của cán bộ, đảng viên; xử lý kỉ luật một số cấp uỷ, đảng viên bị vi phạm Điều lệ Đảng. Trong 3 năm 1969 - 1971, toàn Đảng bộ cử hơn 280 đảng viên đi chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đồng thời kết nạp thêm 370 đảng viên mới.

Thời kỳ 1977 – 1994 là thời kỳ hợp nhất giữa huyện Yên Mô và 9 xã phía Bắc huyện Yên Khánh. Lúc này tên huyện Yên Mô được chuyển gọi là huyện Tam Điệp. Thời kỳ này Huyện uỷ vẫn tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường công tác xây dựng Đảng, củng cố, kiện toàn các cấp uỷ cơ sở về số lượng, nâng cao về chất lượng. Đồng thời, các cấp uỷ Đảng cũng từng bước bổ sung, hoàn thiện quy chế hoạt động, tích cực đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 164 trang tài liệu này.

Ngày 9/11/1982, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tam Điệp lần thứ II đã được khai mạc. Đại hội đã đánh giá, kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội 4 năm (1977 – 1980) và đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (1981 – 1985). Trước những diễn biến phức tạp của kinh tế và đời sống trong nước, công tác xây dựng Đảng được tăng cường. Trong cả nhiệm kỳ, Đảng bộ đã tổ chức nhiều lớp tập huấn để tạo sự chuyển biến trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Phong trào xây dựng chi, Đảng bộ

trong sạch vững mạnh được tiếp tục phát triển, đồng thời tập trung của cố các chi bộ yếu kém. Kết quả là đã “giảm số chi Đảng bộ yếu kém từ 6% xuống còn 4,2% và tăng số chi, Đảng bộ trong sạch vững mạnh từ 82% (năm 1981) lên 87% (năm 1985) [7, tr. 176]. Công tác cán bộ cũng được kiện toàn từ huyện đến cơ sở. Sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên góp phần thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của huyện.

Đảng bộ huyện Yên Mô Ninh Bình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2001 đến năm 2015 - 3

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tam Điệp lần thứ III (từ 15 đến 20/1/1986) với 144 đại biểu, là Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới. Với tinh thần tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã tiến hành kiểm điểm nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đại hội Đảng bộ khóa II và đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của nhiệm kỳ 1986 – 1990.

Thực hiện Chỉ thị 16 của Ban Bí thư TW Đảng, Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị, công tác xây dựng Đảng của huyện Tam Điệp tập trung chủ yếu vào khâu then chốt nhất là “làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng” [7, tr. 193].

Ngày 4/7/1994, Chính phủ ra Nghị định số 59/CP về việc tách 9 xã thuộc huyện Yên Khánh trước đây hợp nhất với huyện Yên Mô (năm 1977) nay trở về thành lập lại huyện Yên Khánh và đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô. Ngày 20/7/1994, Tỉnh ủy Ninh Bình ra Quyết định số 125-QĐ/TU thành lập BCH Đảng bộ (lâm thời) huyện Yên Mô gồm 24 ủy viên. Đồng chí Bùi Văn Phượng được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy.

Sau khi tái lập đến cuối năm 1995, toàn Đảng bộ huyện có “4 682 đảng viên, bằng 4,68% dân số. Trong đó có 1 792 đảng viên hưu trí, mất sức chiếm 38%; 694 đảng viên nữ bằng 14,8%; 44 đảng viên gốc giáo bằng 0,9% đang sinh hoạt ở 52 TCCSĐ” [1, tr. 10]. Thực hiện Nghị quyết TW3 về đổi mới và chỉnh đốn công tác xây dựng Đảng, đến cuối năm 1995 chất lượng đảng viên đã thay đổi rõ rệt. Các đảng viên tham gia sinh hoạt đầy đủ hơn, ý thức chấp hành Nghị quyết, chấp hành nguyên tắc Đảng tốt hơn, số đông đảng viên xếp loại đủ tư cách. Số đảng viên không đủ tư cách phải đưa ra khỏi Đảng rất ít. Bản báo cáo về phân loại đảng viên ngày 27/5/1995 của Huyện uỷ đã cho thấy rõ chất lượng của đội ngũ đảng viên của Đảng bộ cụ thể như sau: trong tổng số 4 682 đồng chí, đảng viên đủ tư cách chiếm 69,7%; đủ tư cách có mặt còn hạn chế 26,9%; vi phạm tư cách 2,3%; không đủ tư

cách phải đưa ra khỏi Đảng 1,1%. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra Đảng cũng được cấp uỷ hết sức coi trọng, tiến hành thường xuyên. Từ năm 1991 đến năm 1995 đã có 5 658 lượt đảng viên được kiểm tra. Trong đó có 63% đảng viên phấn đấu tốt; 23% đảng viên phấn đấu có mặt còn hạn chế; 14% đảng viên có vi phạm. Qua kiểm tra đã phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm, làm rõ các trường hợp có đơn thư khiếu tố (trong nhiệm kỳ đã xử lý kỷ luật bằng các hình thức 712 trường hợp, trong đó khai trừ ra khỏi Đảng 40 trường hợp) [1, tr. 11].

Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy về “Tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp”, ngày 20/3/1996, tại hội trường huyện, Huyện ủy đã tổ chức Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII với sự hiện diện của hơn 150 đại biểu của 53 TCCSĐ, đại diện cho 4 682 đảng viên toàn Đảng bộ. Với tinh thần “Đoàn kết, dân chủ, kỉ cương”, Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng bộ trong những năm 1991 – 1995, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong nhiệm kỳ 1996 – 2000. Về công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ tập trung mọi cố gắng để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới và tạo tiến bộ về công tác xây dựng Đảng về cả tư tưởng, tổ chức cán bộ, chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng” [7, tr. 237].

Xác định công tác xây dựng Đảng là then chốt, nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của cán bộ Đảng từ huyện đến cơ sở, huyện Yên Mô đã chú ý mở các lớp tập huấn và khóa học lý luận sơ cấp cho các Bí thư chi bộ cơ sở, cử cán bộ đi học lớp lý luận trung cấp, cao cấp và lớp quản lý Nhà nước. Đội ngũ cán bộ chủ chốt từ huyện đến cơ sở được kiện toàn và sắp xếp lại. Việc củng cố TCCSĐ và giáo dục, quản lý đảng viên cơ sở đạt kết quả tương đối tốt. Ở nhiệm kỳ này công tác phát triển Đảng cũng thu được những kết quả tích cực. Nếu như năm 1996 toàn huyện có 4 772 đảng viên sinh hoạt tại 51 TCCSĐ, năm 1997 có 4 790 đảng viên thì năm 1998 đã tăng lên tới 4 916 đảng viên sinh hoạt ở 49 TCCSĐ. Số TCCSĐ xếp loại TSVM hàng năm đều đạt trên 80%. Về cơ bản đã khắc phục được những cơ sở Đảng yếu kém. Từ năm 1996 đến năm 2000, Đảng bộ huyện Yên Mô liên tục được BTV Tỉnh uỷ công nhận là Đảng bộ TSVM.

Như vậy, trước năm 2001, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cùng với những nỗ lực, quyết tâm của toàn thể đảng viên và nhân dân trong huyện, Đảng bộ huyện Yên Mô đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận trong công tác xây dựng

Đảng (số TCCSĐ đạt tiêu chuẩn TSVM luôn chiếm tỷ lệ cao; số lượng đảng viên mới được kết nạp năm sau cao hơn năm trước; chất lượng đảng viên ngày càng được nâng lên v.v…). Tuy nhiên, sự thay đổi về địa giới hành chính cũng gây ra không ít khó khăn cho công tác xây dựng Đảng về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức ở Yên Mô thời kỳ trước năm 2001. Đó là những khó khăn mà Đảng bộ Yên Mô cần sớm khắc phục để đưa sự nghiệp cách mạng huyện nhà vững bước tiến lên trong những giai đoạn tiếp sau.

1.2. Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong những năm 2001 - 2005

1.2.1. Chủ trương của Đảng, của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô về công tác xây dựng Đảng

1.2.1.1. Chủ trương của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã họp từ ngày 19/4 đến ngày 22/4/2001, vào thời điểm có ý nghĩa trọng đại: Thế kỷ XXI vừa bắt đầu; toàn Đảng, toàn dân ta đã trải qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 và 15 năm đổi mới.

Đại hội IX đã nghiêm túc kiểm điểm và đánh giá những thành tựu cũng như những khuyết điểm trong thời gian qua, từ đó đề ra những quyết sách cho thời kỳ tới, phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nhằm động viên nhân dân phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN vững bước đi vào thế kỷ mới.

Năm năm qua, bên cạnh những thành tựu mà nhân dân Việt Nam đã đạt được như: kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố… Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII còn có những yếu kém, khuyết điểm. Đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng khi việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống. Một số tổ chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn, dân chủ bị vi phạm, kỉ luật, kỉ cương lỏng lẻo…

Báo cáo chính trị Đại hội IX đã xác định: “Trong những năm tới toàn Đảng tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng với quyết tâm và nỗ lực cao hơn, tạo chuyển biến cơ bản trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức” [15, tr. 163]. Do vậy, Đại hội đã đề ra những nhiệm vụ quan trọng cho công tác xây dựng Đảng như sau:

Thứ nhất, giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Thứ ba, xây dựng, củng cố các TCCSĐ.

Thứ tư, kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Để khẳng định hơn nữa vai trò của công tác xây dựng Đảng trong việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị mới, Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng khóa IX đã đưa ra báo cáo số 31/TLHN của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 6 (lần 2) khóa VIII, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí”. Trên cơ sở xem xét, đánh giá tình hình thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ sau Đại hội IX, báo cáo đã đưa ra một số chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh cuộc vận động mà trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí. Báo cáo có đoạn viết: Chống tham nhũng, lãng phí vừa là vấn đề nóng bỏng trước mắt, vừa là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt, lâu dài gắn liền với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Sau khi báo cáo 31 của Bộ Chính trị, ngày 19/11/2001, Hội nghị lần thứ 4

BCH TW đã đưa ra Kết luận số 04-KL/TW và khẳng định: “Quán triệt thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, sắp tới cần phải đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW 6 (lần 2). Trong đó Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh: “cả ba nội dung cơ bản của Nghị quyết đều phải đi sâu thực hiện có hiệu quả, trong đó chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt” [72, tr. 254].

Nhằm mục đích cụ thể hóa những nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng, Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng khóa IX (họp ngày 18/3/2002) đã đưa ra Nghị quyết về “Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”. Đặc biệt là Nghị quyết về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ

sở xã, phường, thị trấn”. Đây là Nghị quyết đầu tiên của TW về vấn đề đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở.

Bên cạnh những Nghị quyết quan trọng kể trên, còn có một số Quyết định, Chỉ thị khác. Chẳng hạn như: Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 7/6/2001 của Bộ Chính trị về việc “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 6 (lần 2) khóa VIII”; Quyết định số 19 của Bộ Chính trị ban hành ngày 3/1/2002 về “Những điều đảng viên không được làm” v.v…

Đại hội IX là Đại hội kết tinh của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới. Các chủ trương, đường lối, Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng được đưa ra tại Đại hội đã thể hiện sự nỗ lực, ý chí kiên cường và niềm hi vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân tộc trong thời điểm lịch sử trọng đại: bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới. Việc vận dụng các chủ trương một cách linh hoạt để phù hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương sẽ đảm bảo cho sự thành công của công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp CNH - HĐH đất nước trong những năm tới.

1.2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô

*Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình

Để chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu, đòi hỏi cụ thể của Ninh Bình, ngày 2/1/2001, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XVIII đã được triệu tập.

Đại hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của tỉnh Ninh Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII và xác định phương hướng, nhiệm vụ cơ bản, đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề cấp thiết cần tập trung giải quyết nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của Ninh Bình trong nhiệm kỳ 2001 - 2005.

Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội có đề cập đến những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình đã đạt được những năm vừa qua trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có thành tựu trong công tác xây dựng Đảng đó là: “Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW 5 và Nghị quyết TW 6 (lần 2) đã tạo được chuyển biến tích cực: “Công tác xây dựng Đảng được triển khai toàn diện, thường xuyên. Công tác tư tưởng đã bám sát các nhiệm vụ kinh tế - xã

hội và các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ, nâng cao sự thống nhất về tư tưởng và hành động. Chất lượng sinh hoạt và phương thức hoạt động của nhiều TCCSĐ được coi trọng, năng lực lãnh đạo của các cấp ủy được nâng lên. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được coi trọng. Công tác kiểm tra được tăng cường” [77; tr. 23-24]. Bên cạnh đó còn có một số tồn tại: “Công tác tư tưởng tính chiến đấu chưa cao, chưa sắc bén, có một số cán bộ, đảng viên mất cảnh giác trước những thông tin, tài liệu có nội dung xấu; nội dung chất lượng sinh hoạt chi bộ còn nhiều hạn chế; việc thực hiện quy trình trong công tác cán bộ có trường hợp chưa chặt chẽ, vẫn còn tình trạng bị động, chắp vá, hẫng hụt” [77; tr. 97-98].

Từ những thành tựu và hạn chế này, Đại hội đã thảo luận và đề ra phương hướng: “Tiếp tục chăm lo, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới”. Những chủ trương và giải pháp xây dựng Đảng trong 5 năm tới được Đại hội đề ra cụ thể như sau:

Một là, tăng cường xây dựng Đảng về mặt chính trị, tư tưởng, trước hết phải gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức quán triệt và xây dựng Chương trình hành động, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII. “Thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, năng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, trình độ năng lực của cán bộ, đảng viên trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước” [77, tr. 68]. Chủ động phát hiện kịp thời và đấu tranh kiên quyết với những quan điểm, hành vi sai trái với cương lĩnh, đường lối, quan điểm, Điều lệ của Đảng, giữ vững trận địa tư tưởng.

Hai là, coi trọng xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh. Tăng cường gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao chất lượng hoạt động và sinh hoạt của các loại hình chi bộ, các cấp uỷ; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện đúng những điều đảng viên không được làm; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; mọi đảng viên phải được phân công trách nhiệm cụ thể và thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công; thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình. Tăng cường công tác phát triển Đảng, đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng [77, tr. 69].

Xem tất cả 164 trang.

Ngày đăng: 06/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí