Tóm lại điều kiện về tư cách chủ thể trong đại diện có ủy quyền là một trong những điều kiện xác định đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật.
2.2.1.2. Phạm vi đại diện trong đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng
Phạm vi đại diện là giới hạn quyền, nghĩa vụ theo đó người đại diện nhân danh người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đối với người thứ ba. Theo quy định của pháp luật về phạm vi đại diện thì: "Phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền" [22, Khoản 2 Điều 144] như vậy có nghĩa "người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện" [22, Khoản 3 Điều 144]. Người đại diện theo ủy quyền còn phải có nghĩa vụ "thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình" [22, Khoản 4 Điều 144].
Từ khái niệm trên về phạm vi đại diện theo ủy quyền chúng ta thấy có sự khác biệt với đại diện theo pháp luật, người đại diện theo pháp luật có quyền thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Còn người đại diện theo ủy quyền chỉ có quyền giao dịch và trong phạm vi được ủy quyền. Nếu vượt quá giới hạn ủy quyền này thì phần vượt quá không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Trong trường hợp người được đại diện không đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện. Như vậy việc xác định phạm đại diện là việc rất quan trọng, nếu như người đại diện không muốn tự mình phải chịu trách nhiệm với giao dịch mình đã xác lập, thực hiện "hộ" người được đại diện.
Cũng như vậy khi vợ chồng đại diện cho nhau theo ủy quyền sẽ giới hạn phạm vi đại diện. Chồng đại diện cho vợ và ngược lại trong các giao dịch dân sự như thế nào thì bị giới hạn? Ta thấy rằng hàng ngày với rất nhiều giao
dịch dân sự diễn ra xung quanh đời sống hôn nhân nhưng không phải bất cứ giao dịch nào cũng là đối tượng điều chỉnh của quan hệ đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng. Các giao dịch dạng như vợ thay mặt chồng đến dự đám cưới của bạn chồng, chồng đi công tác xa làm giấy ủy quyền cho vợ mình đến nhận bằng tốt nghiệp đại học trong lễ trao bằng tốt nghiệp đại học... và các dạng ủy quyền như vậy của vợ và chồng không phải là đối tượng điều chỉnh của quan hệ đại diện theo ủy quyền của pháp luật Hôn nhân và gia đình.
Vậy những giao dịch như thế nào được pháp luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh trong đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng? Đó sẽ là những giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng. Có nghĩa các giao dịch này là các giao dịch có liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng (Điều 28 Luật Hôn nhân gia đình) hoặc tài sản thuộc sở hữu riêng vợ, chồng nhưng đã được đưa vào sử dụng chung, mà hoa lợi, lợi tức là nguồn sống duy nhất của gia đình (Khoản 5 Điều 33).
Theo quy định trên ta cũng có thể hiểu khi vợ chồng thống nhất ủy quyền cho nhau thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ chồng cũng sẽ được thực hiện nếu như có sự nhất trí của cả vợ và chồng. Khi đó hành vi giao dịch do một bên vợ (chồng) thực hiện theo ý chí của người chồng (vợ) kia sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ về tài sản của người được đại diện. Và giao dịch được thực hiện trong phạm vi ủy quyền thì người được đại diện sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân về hậu quả của giao dịch bằng tài sản riêng của mình.
Như vậy, vợ chồng sẽ là đại diện cho nhau trong các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự nhất trí của cả vợ và chồng thì mới áp dụng pháp luật về đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng.
2.2.1.3. Hình thức văn bản ủy quyền của đại diện giữa vợ và chồng
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ Hoặc Chồng Với Tư Cách Là Người Đại Diện Cho Chồng Hoặc Vợ Của Mình Bị Mất Năng Lực Hành Vi Dân Sự
- Đại Diện Giữa Vợ Chồng Trong Trường Hợp Vợ Chồng Bị Hạn Chế Năng Lực Hành Vi Dân Sự
- Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Giữa Vợ Và Chồng Và Thực Tiễn Áp Dụng
- Vợ, Chồng Đại Diện Cho Nhau Trong Việc Thực Hiện Các Giao Dịch Liên Quan Đến Tài Sản Riêng Của Một Bên Vợ, Chồng
- Nhu Cầu Khách Quan Và Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Đại Diện Giữa Vợ Và Chồng
- Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Đại Diện Giữa Vợ Và Chồng
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
Về hình thức của ủy quyền, thì "Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản" [22, khoản 2, Điều 142].
Nhưng theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình việc ủy quyền giữa vợ và chồng trong các giao dịch dân sự mà cần phải có sự nhất trí của hai vợ chồng "phải được lập thành văn bản". Quy định đã giới hạn hình thức đại diện của vợ chồng trong giao dịch pháp luật dân sự. Như vậy văn bản thỏa thuận của vợ chồng trong đại diện giữa vợ và chồng sẽ được xác định như thế nào, bởi đây chính là căn cứ pháp lý để xác định phạm vi ủy quyền, nghĩa vụ của người được ủy quyền, đồng thời xác định trách nhiệm dân sự của người ủy quyền hoặc người được ủy quyền khi tham gia vào quan hệ tố tụng dân sự?
Về hình thức của việc ủy quyền bằng văn bản thì hiện nay có hai hình thức đó là Giấy ủy quyền và Hợp đồng ủy quyền. Có thể hiểu, Giấy ủy quyền là một hình thức đại diện ủy quyền do chủ thể bằng hành vi pháp lý đơn phương thực hiện, trong đó ghi nhận việc người ủy quyền chỉ định người được ủy quyền đại diện mình thực hiện một hoặc nhiều công việc trong phạm vi quy định tại Giấy ủy quyền. Tuy nhiên, khác với Hợp đồng ủy quyền được quy định cụ thể và định nghĩa rõ ràng (Mục 12 Chương XVIII Bộ luật Dân sự2005), Giấy ủy quyền lâu nay chỉ được thừa nhận mà chưa có quy định cụ thể. Xét về hình thức nó là một loại "giấy tờ" "văn bản"; về bản chất nó là một giao dịch dân sự. Bởi vì theo quy định thì "Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [22, Điều 121]. Việc lập Giấy ủy quyền thể hiện đầy đủ đặc tính của giao dịch dân sự được định nghĩa ở trên.
Nhưng một vướng mắc pháp lý đặt ra là hiện nay chưa có quy định cụ thể để xác định cơ quan có thẩm quyền xác nhận Giấy ủy quyền. Trên thực tế, một số người dân khi đến để chứng thực chữ ký vào Giấy ủy quyền ở một số Ủy ban nhân dân xã, phường đã bị từ chối, còn một số phường, xã khác vẫn chứng thực chữ ký vào Giấy ủy quyền. Trong khi đó, các Phòng công chứng luôn nhận công chứng Giấy ủy quyền khi được yêu cầu. Theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 5, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của
Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (Ủy ban nhân dân cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt. Trong khi đó, Luật Công chứng có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 quy định: "Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng" [24].
Như vậy, theo các quy định trên thì có thể hiểu các tổ chức hành nghề công chức có thẩm quyền công chứng Giấy ủy quyền bởi vì đó là một giao dịch dân sự. Tuy nhiên, tại một số xã, phường nếu chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền với tính chất là chứng thực chữ ký trong các "văn bản", "giấy tờ" thì vẫn phù hợp với quy định tại Nghị định 79/2007/NĐ-CP như đã viện dẫn. Như vậy, cùng một Giấy ủy quyền nhưng nếu được chứng thực (chữ ký) thì giá trị pháp lý có gì khác với việc Giấy ủy quyền đó được công chứng (chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch)?
Ta thấy rõ ràng có sự khác biệt về hình thức văn bản của hành vi ủy quyền. Để xác lập quan hệ ủy quyền, trong nhiều trường hợp pháp luật bắt buộc phải có sự công chứng, chứng thực của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền mới có giá trị pháp lý. Việc vợ và chồng ủy quyền cho nhau thực hiện một giao dịch nào đó thì hình thức văn bản nào là phù hợp, thuận tiện cho việc thực hiện quyền năng của công dân cũng như thực hiện các chức năng của gia đình. Nhưng loại văn bản ủy quyền là phù hợp cho việc đại diện giũa vợ và chồng? Những vướng mắc đó chưa được giải quyết bằng các quy định cụ thể của pháp luật, nên trong nhiều trường hợp người dân không nắm rõ được rằng cùng một hành vi (viết Giấy ủy quyền), nhưng giá trị pháp lý như thế nào nếu được chứng thực hoặc công chứng. Tuy nhiên với quan hệ vợ chồng thì việc ủy quyền sẽ như thế nào, vì đây là quan hệ đặc biệt bản thân quan hệ hôn nhân đã là sự đảm bảo đáng kể cho tư cách chủ thể của vợ và chồng trong
giao lưu dân sự, vậy thì hình thức ủy quyền nào là phù hợp hơn cả cho quan hệ hôn nhân cũng như đáp ứng được sự kịp thời của giao lưu dân sự? Giấy ủy quyền là một hình thức đại diện ủy quyền giữa vợ và chồng do một bên vợ hoặc chồng thực hiện bằng cách chỉ định người đại diện cho mình là vợ hoặc chồng mình thực hiện một hay một số công việc trong phạm vi ủy quyền.
Như vậy, việc lập giấy ủy quyền, hợp đồng ủy quyền hay một loại văn bản khác trong hành vi ủy quyền có thể tùy vợ, chồng thỏa thuận nhằm đáp ứng một cách nhanh nhất trong giao lưu. Tuy nhiên để đảm bảo tính hợp pháp và tránh cho các tranh chấp sau này thì việc quy định hình thức văn bản ủy quyền thống nhất là cần thiết như tuyên bố của TS Nguyễn Văn Tiến, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: "Đã đến lúc Tòa án nhân dân tối cao có văn bản hướng dẫn đầy đủ quy định từ hình thức, nội dung cho đến việc thế nào là một giấy ủy quyền hợp lệ. Có hướng dẫn để áp dụng thống nhất sẽ tránh được những sai sót và tranh cãi như hiện nay" [Dẫn theo: 33].
Thêm nữa việc chứng thực tại các Ủy ban nhân dân cũng cần có sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt tránh những vụ việc cụ thể lợi dụng pháp luật để dẫn đến những sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật như sau:
Ông Phan Quốc Thắng hiện là Giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự và vợ là bà Nguyễn Thị Bích Thuỷ đã làm đơn ly hôn ra tòa từ đầu năm 2006.
Trong thời gian này, bà Thuỷ đã giả mạo chữ ký của chồng rồi cùng cán bộ có thẩm quyền tạo giấy tờ giả, bán tẩu tán biệt thự 5C4, khu đô thị Nam Thăng Long (Ciputra), rộng 198m2 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Thắng và bà Thuỷ. Ngày 26/7/2007, bà Thuỷ đã làm giả "Giấy cam đoan" xác nhận biệt thự trên là tài sản riêng của mình, giả chữ ký của ông Phan Quốc Thắng, rồi xin chứng thực chữ ký giả mạo tại Ủy ban nhân dân phường Trung Tự. Thực tế, ông Phan Quốc Thắng không làm giấy xác nhận tài sản trên cho bà Thuỷ, đồng thời ngày 26/7/2007, ông
Thắng cũng không hề đến Ủy ban nhân dân phường Trung Tự vì phải thực hiện nhiệm vụ của Học viện Kỹ thuật Quân sự. Vậy nhưng, ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Trung Tự đã xác nhận vào "Giấy cam đoan" giả mạo trên là: "Chứng thực ông Phan Quốc Thắng đã ký trước mặt tôi (ông Phương - PV) tại Ủy ban nhân dân phường Trung Tự ngày 26/7/2007".
Sau khi có "Giấy cam đoan" giả trên, bà Thủy đã tiến hành làm "sổ đỏ" căn biệt thự 5C4, khu đô thị Ciputra và đã được Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 9/8/2007. Sau đó, bà Thủy đã chuyển nhượng căn biệt thự trên với giá 4,1 tỷ đồng mà ông Phan Quốc Thắng không hề hay biết [25].
Theo như ví dụ trên thì việc chứng minh tài sản riêng của vợ chồng theo quy định của pháp luật hiện nay đang còn đơn giản và chỉ cần tắc trách của cán bộ Ủy ban nhân dân xã, phường thì hậu quả thật khó lường.
Tóm lại trên đây là các căn cứ phát sinh việc vợ (chồng) ủy quyền cho nhau thực hiện giao dịch dân sự. Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau trong điều kiện nhất định khi không thể trực tiếp thực hiện các quyền dân sự của mình. Việc ủy quyền phải lập thành văn bản sao cho phù hợp và đảm bảo lợi ích lâu dài của gia đình.
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền
2.2.2.1. Vợ, chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc dùng tài sản đầu tư kinh doanh
"Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận" [18, Khoản 3 Điều 28].
Đây là các giao dịch trong lĩnh vực dân sự, thương mại được pháp luật dân sự, thương mại điều chỉnh. Khi người vợ hoặc chồng tham gia giao dịch này với tư cách cá nhân, một chủ thể độc lập mà không cần quan tâm đến tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật cũng như nguồn gốc tài sản từ đâu. Ví dụ Luật Doanh nghiệp không có quy định cụ thể về nguồn gốc của phần vốn góp vào doanh nghiệp, hay Luật Dân sự không có quy định đòi hỏi người tham gia giao dịch có giá trị lớn phải biết giao dịch đó thực hiện bằng tài sản nào? Trong khi đó điều này có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu lực pháp lý của giao dịch cũng như ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên liên quan.
Tuy nhiên với tính chất đặc biệt của hôn nhân nên việc pháp luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh với ý nghĩa khác đó là quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong các giao dịch loại này. Chính bởi vậy việc xác định ý chí, mục đích và loại tài sản đưa vào giao dịch chính là những căn cứ để xác định trách nhiệm tài sản của vợ chồng khi một bên tham gia giao dịch với tư cách đại diện theo ủy quyền của vợ hoặc chồng mình mà "Trong pháp luật Việt Nam chưa có các quy định làm cầu nối, làm cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề này giữa các ngành luật" [13]...
Như vậy, để xác định khái niệm "tài sản chung có giá trị lớn" như thế nào là vấn đề không dễ trong điều kiện xã hội hiện nay. Nhưng trong luật cũng như các quy định hướng dẫn cũng không quy định như thế nào là tài sản có giá trị lớn, như vậy việc hiểu và áp dụng luật sẽ phụ thuộc vào thực tế đời sống xã hội nói chung cũng như mặt bằng chung của từng địa phương và của thẩm phán. Nhưng ta cũng có thể hiểu rằng tài sản có giá trị lớn là khi những giao dịch liên quan đến tài sản đó có ảnh hưởng đến khối tài sản chung của gia đình. Bất kể giao dịch nào liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn đều phải có sự thống nhất của vợ chồng. Và khi đó vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau thực hiện các giao dịch đó và phải thể hiện bằng văn bản.
Tuy nhiên trên thực tế khi vợ (chồng) đại diện cho nhau theo ủy quyền để thực hiện một giao dịch dân sư, thương mại thường thực hiện bằng lời nói,
hoặc không thể hiện ý chí rõ ràng mà giá trị tài sản giao dịch không hề nhỏ thì việc thể hiện sự đồng ý của vợ chồng trong giao dịch này lấy gì làm căn cứ? Ví dụ: A là chồng của B. A đến cửa hàng của C mua 1 ô tô trị giá 200 triệu. Khi biết B không phản đối. Như vậy việc xác lập giao dịch này được coi như sự ủy quyền ngầm của hai vợ chồng, mặc nhiên thừa nhận giá trị pháp lý của giao dịch mặc dù không có văn bản nào xác nhận việc ủy quyền của chị B cho anh A trong việc xác lập giao dịch mua bán ô tô. Nhưng sẽ là phức tạp khi chị B phản đối việc mua ô tô của anh A vì chị cho rằng việc xác lập giao dịch không có sự đồng ý của chị. Theo quy định của pháp luật trong trường hợp này giao dịch sẽ bị tuyên vô hiệu. Các bên sẽ trả lại cho nhau những gì đã nhận, quay lại tình trạng ban đầu. Tuy nhiên buộc C nhận lại chiếc ô tô có trị giá 200 triệu hầu như không có tính khả thi. Vì thực chất C muốn ô tô và đã bán được ô tô nên không bao giờ C muốn nhận lại ô tô và trả tiền vì việc bán ô tô này còn liên quan đến pháp luật về Thuế, về tình trạng kinh doanh của C. Hơn nữa C không biết và không buộc phải biết việc dùng 200 triệu để mua ô tô đã có sự thống nhất của vợ chồng A, B hay không. Nếu buộc C phải trả lại tiền và nhận lại ô tô thì dẫn đến tình trạng không ổn định trong giao lưu dân sự. Như vậy, việc đại diện của vợ chồng diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội vượt qua sự kiểm soát của quy định pháp luật. Tuy nhiên sẽ là khó xác định khi tranh chấp xảy ra và xác định việc đại diện này có hợp pháp hay không? Lúc này hình thức nào là tốt nhất cho sự thể hiện ý chí thống nhất của vợ chồng? Liệu vợ hoặc chồng đòi hủy giao dịch vô hiệu có được chấp nhận không, và thiệt hại của người bán hàng là phải nhận lại ô tô và trả lại tiền có được chấp nhận? Hay người mua những tài sản lớn nhất thiết phải đưa ra văn bản thể hiện sự thống nhất của vợ hoặc chồng khi mua tài sản có giá trị lớn?
Tiếp theo nữa việc giao dịch do một bên vợ chồng thực hiện liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn là những giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu …cũng rất khó xác định sự thỏa thuận của vợ chồng trong các giao dịch. Với các giấy tờ không được phép tham gia lưu thông chuyển nhượng trên thị trường mà chỉ được chuyển quyền sở hữu với những điều