kiện nhất định (Điều 99 Luật Doanh nghiệp 2005) thì việc xác định tư cách chủ thể trong đại diện theo ủy quyền còn dễ dàng. Nhưng đối với các loại giấy tờ có giá khác với tính chất chuyển nhượng dễ dàng như cổ phiếu chứng khoán thì việc xác định tư cách đại diện cũng như việc thống nhất ý chí của hai vợ chồng khi tham gia giao dịch là vô cùng khó khăn. Trên thực tế bên mua không cần quan tâm đến độ rủi ro khi tham gia giao dịch rằng hợp đồng mua bán của mình liệu có bị vô hiệu? Và cũng thật khó khăn khi tìm căn cứ để tuyên hợp đồng mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là vô hiệu vì khi tuân theo các thủ tục Tố tụng của pháp luật Việt Nam thì khối tài sản là cổ phiếu đó đã được đưa vào giao lưu đến vài chủ sở hữu khác rồi. Mà thực tế thì khối tài sản chung của vợ chồng này có giá trị không hề nhỏ. Chính bởi vậy ý kiến của một bên vợ chồng hầu như không mấy ai quan tâm và nếu có thì trên thực tế khi người vợ thực hiện quyền của mình thì hợp đồng đó đã được thực hiện. Vậy nên hành vi mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán liên quan đến tài sản chung mà bên kia biết thì phải coi như là mặc nhiên thừa nhận sự thỏa thuận trước của hai vợ chồng.
Như vậy có nghĩa trong những trường hợp này việc người vợ hoặc chồng mặc nhiên chấp nhận quy luật thị trường và việc có rủi ro thì cũng không thể áp dụng các quy định pháp luật về Hôn nhân và gia đình để bảo vệ mình. Việc người chồng dùng tài sản chung vào kinh doanh, hoa lợi từ việc kinh doanh là tài sản chung và tiếp tục được đầu tư kinh doanh nhưng trên thực tế không phải lúc nào người vợ cũng được hỏi ý kiến vì khi có được ý kiến của người vợ thì cơ hội kinh doanh cũng không còn đặc biệt trong những lĩnh vực kinh doanh cần sự nhanh nhạy. Chính vì những lý do như vậy và để đảm bảo "hòa khí" trong gia đình thì người vợ hoặc chồng trong điều kiện nhất định cũng nên chấp nhận vì tài sản của mình đang được lưu thông trên thị trường và chồng hoặc vợ mình đang thay mặt gia đình để kinh doanh phục vụ nhu cầu của gia đình.
Trong đời sống xã hội không thiếu các giao dịch của một bên vợ chồng liên quan đến đại diện theo ủy quyền của vợ chồng liên quan đến tài sản quyền sử dụng đất ta cùng nghiên cứu bản án sau đây:
Bản án được tóm tắt như sau:
Vợ chồng chị Hoàng Thị Nga và anh Hoàng Quốc Mậu mua căn nhà ở đường Nguyễn An Ninh năm 1998 sau đó cải tạo lại tổng cộng hết 50 cây vàng. Năm 1999 anh Mậu đi lao động tại Libăng chị Nga làm thủ tục bán ngôi nhà này cho ông bà Đặng Tiến Lân và Nguyễn Thị Hảo với giá 270 triệu. Trong hồ sơ vụ án (bút lục 52, 53) chị Nga đều viết "Bán nhà có sự nhất trí của 3 mẹ con, chồng tôi không liên quan đến ngôi nhà này"... Tuy nhiên sau khi thẩm tra và diễn biến tại phiên tòa thì thực chất ngôi nhà này là tài sản chung của vợ chồng chị Nga anh Mậu. Việc chị Nga làm thủ tục bán nhà mà không có sự đồng ý của anh Mậu là sai, và như vậy việc tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định hủy hợp đồng mua bán nhà giữa chị Nga và vợ chồng Hảo -Lân ngày 7, 8/11/2000 là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật. Và việc xem xét lại bản án của tòa Phúc thẩm- Tòa án nhân dân tối cao nhất trí với cách giải quyết của tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc hủy hợp đồng mua bán giữa chị Nga và ông bà Hảo Lân [27].
Tiếp theo cũng liên quan đến việc tài sản chung của vợ chồng mà một bên đại diện bán tài sản mà bên ký không biết hoặc biết mà không thể hiện ý chí. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Lương Đình Việt và vợ là Đỗ Thị Ngãi năm 1994 mua của bà Vũ Thị Mai đất thổ cư tại bản Sơn Viên, khu 2, thị trấn Phố Ràng, Bảo Yên. Việc mua bán đã làm đầy đủ thủ tục qua chính quyền thị trấn. 29/11/2001, vợ anh thỏa thuận bán cho chị Trần Thị Thúy với giá 20.000.000 đồng anh không biết và không ký giấy tờ gì. Tháng 04/2002 chị Thúy đổ đất làm nhà thì anh mới biết và anh đề nghị được trả lại tiền và trả thêm 6.000.000 đồng tiền đổ đất san nền vì anh không đồng ý bán. Nhưng vợ chồng chị Thúy không đồng ý trả lại tiền và vẫn tiếp tục xây dựng nhà. Nay anh Việt yêu
cầu không bán đất buộc chị Thúy anh Phương phải tháo dỡ nhà và công trình trả lại đất cho anh. Còn chị Thúy yêu cầu nếu anh Việt muốn lấy lại đất thì phải lấy cả nhà và bồi thường cho chị Thúy 200.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2005/DSST ngày 21/7/2005 Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Tuyên bố giao dịch chuyển quyền sử dụng đất giữa chị Đỗ Thị Ngãi và chị Trần Thị Thúy là giao dịch dân sự vô hiệu.Buộc chị Trần Thị Thúy phải trả lại toàn bộ 162,3 m2 đất cho anh Lương Đình Việt và chị Đỗ Thị Ngãi, đồng thờichuyển giao quyền sở hữu toàn bộ căn nhà…xây dựng trên lô đất 163,2 m2 mà chị Thúy phải trả cho anh Việt và chị Ngãi.
Có thể bạn quan tâm!
- Đại Diện Giữa Vợ Chồng Trong Trường Hợp Vợ Chồng Bị Hạn Chế Năng Lực Hành Vi Dân Sự
- Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Giữa Vợ Và Chồng Và Thực Tiễn Áp Dụng
- Phạm Vi Đại Diện Trong Đại Diện Theo Ủy Quyền Giữa Vợ Và Chồng
- Nhu Cầu Khách Quan Và Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Đại Diện Giữa Vợ Và Chồng
- Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Đại Diện Giữa Vợ Và Chồng
- Đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - 13
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
- Ngày 01 /8/2005 anh Lương Đình Việt có đơn kháng cáo
Tòa Phúc thẩm tại Hà Nội xem xét và quyết định Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị Ngãi với chị Thúy lập ngày 29/11/2001 là hợp đồng vô hiệu là đúng vàkhông chấp nhận kháng cáo của ông Lương Đình Việt, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2005/ DSST ngày 21/7/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai bị kháng cáo [28].
Như vậy, cả hai vụ án trên đều chung hiện tượng tài sản chung của vợ chồng do một bên giao dịch, bên kia không biết hoặc biết nhưng không thể hiện ý chí và đều dẫn đến giao dịch bị vô hiệu. Đặt ra vấn đề người giao dịch có biết hoặc buộc phải biết tài sản mình đang giao dịch có phải là tài sản chung hay không, nếu biết thì việc thể hiện nhất trí giao dịch của vợ chồng có cần thể hiện bằng văn bản hay không? Và nếu việc mua bán có sự đồng ý của hai bên nhưng giao dịch chỉ có một người thì văn bản ủy quyền là hình thức nào hay cứ giao dịch và cho đó là đại diện đương nhiên giữa vợ và chồng vì đây là quan hệ đặc biệt chỉ cần một người giao dịch là đủ vì họ đã thể hiện ý chí thống nhất?
Trong ủy quyền giữa vợ và chồng thì phạm vi ủy quyền cần phải xem xét. Vì trên thực tế có nhiều vụ việc liên quan đến ủy quyền giữa hai vợ chồng nhưng khi vượt quá giới hạn của ủy quyền thì xác định lỗi như thế nào là rất khó. Có thể quy kết là gian dối để hủy giao dịch không, hay coi đó là trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình khi một người thực hiện giao dịch. Như ta đã biết vì đối tượng liên quan đến giao dịch là tài sản chung của vợ chồng nên việc xác định lỗi nhiều khi hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của hai vợ chồng mặc dù có vi phạm vượt quá giới hạn nhưng hai bên là vợ chồng hơn nữa tài sản là của chung nên việc bồi thường nhiều khi không đặt ra. Bởi vì không ai lấy tài sản của mình để bồi thường cho mình, nếu trong trường hợp đó thì vợ chồng cùng nhau khắc phục mà thôi. Tuy nhiên đấy là khi vợ chồng có thể thống nhất và vẫn muốn kéo dài hôn nhân quan hệ vợ chồng còn tồn tại thì hầu như các vụ việc này không cần đến luật pháp can thiệp, hầu như các bên đều thống nhất thỏa thuận được. Còn trên thực tế các vụ án dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng đều đi cùng với án ly hôn hoặc nằm rải rác trong các án kinh tế, thương mại, dân sự... Đây chính là điểm khó khăn trong khâu thu thập tài liệu, thống kê các vụ việc liên quan đến đại diện vợ chồng khi tham gia giao dịch trong luận văn này.
Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không có quy định phải tuân theo hình thức nhất định, nhưng giao dịch đó có liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc giao dịch đó có liên quan đến việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình, thì việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch đó cũng phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng [4, Điều 4].
Trong quy định này việc xác định tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình ta có thể dễ hình dung, dễ hiểu đó chính là khối tài sản tạo
ra nguồn thu duy nhất của gia đình như ngôi nhà đang cho thuê mà cả gia đình sinh hoạt bằng tiền thuê nhà, chiếc xe máy dùng làm phương tiện hành nghề xe ôm, con trâu dùng để cày thuê… thì khi vợ chồng quyết định xác lập, chấm dứt hoặc thực hiện các giao dịch liên quan đến những tài sản như vậy sẽ phải bàn bàn bạc thống nhất. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch liên qua đến tài sản loại này cần sự thống nhất cao của vợ chồng vì nó không những liên quan trực tiếp đến bản thân vợ, chồng mà nó còn liên quan đến sự ổn định, phát triển bình thường trong gia đình. Như vậy việc ủy quyền cho nhau giữa vợ và chồng trong trường hợp này để xác lập, thực hiện và chấm dứt một giao dịch cần hết sức thận trọng, đặc biệt loại trừ giả mạo giấy ủy quyền vì tính chất nghiêm trọng của sự việc này.
Theo các quy định nêu trên của pháp luật thì khi tham gia vào giao dịch dân sự nói chung cũng như hợp đồng dân sự nói riêng đối với tài sản chung của vợ và chồng đều phải có sự thỏa thuận và đồng ý của cả vợ và chồng. Nếu một bên vợ hoặc chồng không có sự đồng ý, thì giao dịch dân sự hay hợp đồng dân sự đó là bất hợp pháp, bị coi là vô hiệu. Đối với các hợp đồng dân sự do một bên vợ hoặc chồng thực hiện thì vợ hoặc chồng chỉ phải chịu trách nhiệm liên đới khi:
- Giao dịch đó phải hợp pháp: Đó là những giao dịch không thuộc những điều pháp luật cấm giao dịch và đặc biệt với đối tượng là hai vợ chồng thì trong một số lĩnh vực hai vợ chồng cũng không được đại diện cho nhau đó là: không đại diện cho nhau trong vụ việc ly hôn có liên quan đến nhân thân của mỗi người.
- Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình
"Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình" [18, Điều 25]. Như vậy người vợ hoặc chồng có trách nhiệm chung với các giao dịch hợp pháp do chồng hoặc vợ mình thực
hiện. Và điều kiện cần và đủ đó là giao dịch này phải đảm bảo là giao dịch hợp pháp và với mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình. Vấn đề cần làm rõ và cụ thể ở đây chính là mục đích của giao dịch "nhu cầu sinh hoạt gia đình". Đây chính là điểm mở của quy định pháp luật, điều này cần được hiểu một cách linh động. Hiểu như thế nào về cụm từ này thật khó vì không có căn cứ như thế nào là đảm bảo sinh hoạt gia đình. Khi một gia đình nuôi con ăn học tại nước ngoài thì khoản chi phí đó có được coi là sinh hoạt gia đình hay không, và nếu không thì khoản chi không nhỏ này được gọi là gì? Các giao dịch của vợ hoặc chồng với mục đích chăm lo việc học hành cho con có được gọi là chi phí sinh hoạt gia đình hay không, từ đó ta mới có thể xác định được giao dịch nào thì có sự chịu trách nhiệm liên đới của vợ hoặc chồng khi một bên thực hiện giao dịch. Vì vậy có thể nói "Các giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện theo ủy quyền liên quan đến kinh doanh kiếm lợi nhuận, hoặc vì lợi ích gia đình mang tính chất lâu dài…không làm phát sinh trách nhiệm liên đới của vợ chồng " [13].
Trước tình trạng pháp luật hiện hành không rõ ràng, thiếu minh bạch trong việc ủy quyền giữa vợ và chồng trong giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn và theo quy định của pháp luật việc ủy quyền. Theo chúng tôi các quy định này của pháp luật cần được sửa đổi theo hướng: Trong quan hệ vợ chồng khi một bên đại diện theo ủy quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc xác định giá trị tài sản, nguồn gốc tài sản tham gia giao dịch là cần thiết. Đây sẽ là mấu chốt để các bên xác định được với nhau phạm vi đại diện giữa hai vợ chồng cũng như việc buộc phải thông báo với bên giao dịch tình trạng của tài sản giao dịch, tránh việc tuyên bố giao dịch vô hiệu góp phần ổn định giao lưu dân sự. Từ đó, sẽ xác định được hình thức ủy quyền của đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng. Tùy từng loại giao dịch mà việc ủy quyền có thể bằng văn bản nhất thiết phải có công chứng hoặc chỉ cần xác nhận chữ ký của Ủy ban nhân nhân xã, phường nơi cư trú của hai vợ chồng.
2.2.2.2. Vợ, chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản riêng của một bên vợ, chồng
Tại Điều 32,33 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định về tài sản riêng của vợ chồng cũng như quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong khi quản lý tài sản riêng cũng như nghĩa vụ sử dụng tài sản riêng khi tài sản chung không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Việc vợ chồng có tài sản riêng là hoàn toàn hợp lý, bảo vệ quyền con người của mỗi cá nhân, tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ vợ chồng đòi hỏi mỗi cá nhân phải xác định lại quyền của mình đối với tài sản riêng đó.
- Vợ chồng có thể tự thỏa thuận và lập thành văn bản hoặc yêu cầu Tòa án để chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại với điều kiện có lý do chính đáng. Sau khi chia tài sản sẽ là tài sản riêng của hai vợ chồng, mỗi người có quyền tự do định đoạt tài sản theo ý mình. Hoa lợi, lợi tức có được từ tài sản đã chia là tài sản riêng của mỗi người. Theo đó, họ cũng có nghĩa vụ tài sản trong khối tài sản này. Tài sản riêng còn là tài sản được tặng cho, thừa kế riêng của mỗi người và chủ sở hữu phải chứng minh được nguồn gốc của tài sản riêng đó. Sự thỏa thuận của vợ chồng công nhận tài sản riêng cũng được cho là có căn cứ chứng minh tài sản riêng của mỗi người.
Nếu vợ, chồng không tự thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản riêng thì có thể ủy quyền cho chồng, vợ mình thực hiện các giao dịch đó. Việc ủy quyền tuân thủ theo pháp luật dân sự về ủy quyền, dưới hình thức là văn bản ủy quyền, xác định giới hạn cũng như quyền nghĩa vụ của hai bên một cách cụ thể. Và theo ý kiến riêng của tác giả thì việc ủy quyền giữa hai vợ chồng liên quan đến tài sản riêng thì nên lập hợp đồng ủy quyền để các quy định được cụ thể. Vì thực tế khi liên quan đến tài sản riêng của mỗi người thì nhân thân hai người là vợ chồng không ảnh hưởng đến giao dịch với bên thứ ba cũng như không thể yêu cầu trách nhiệm liên đới khi một bên thực hiện giao dịch ngoại trừ việc giao dịch liên quan đến nhu cầu thiết yếu của gia đình. Khi lập hợp đồng ủy quyền theo mẫu thì có những điều khoản về vượt
quá giới hạn thì sẽ xử lý cụ thể trong hợp đồng để tránh cho mọi bất trắc về sau. Bên cạnh đó việc thông báo cho bên thứ ba biết được việc thực hiện giao dịch bằng tài sản riêng của vợ chồng để bên thứ ba không thể viện dẫn Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình về vấn đề chịu trách nhiệm liên đới khi một người vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch.
Việc vợ (chồng) tham gia với tư cách ủy quyền cho nhau thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản riêng thì áp dụng quy định như trong pháp luật dân sự về ủy quyền. Nhưng nếu tài sản riêng này đưa vào hoạt động kinh doanh mà hoa lợi, lợi tức là nguồn sống duy nhất thì cơ chế áp dụng lại như là tài sản chung của vợ chồng, nghĩa là phải có sự nhất trí của cả hai vợ chồng khi đưa tài sản vào tham gia giao dịch. Và nếu có thiệt hại xảy ra thì người chồng hoặc vợ đã xác lập giao dịch liên quan đến loại tài sản này không có sự nhất trí của phía bên kia phải hoàn toàn chịu trách nhiệm bằng tài sản chung của vợ chồng. "Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng" [18, Khoản 5 Điều 33] và cụ thể hóa tại Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân gia đình, thì việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ, chồng được quy định như sau:
Việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch liên quan đến định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng tài sản đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình mà pháp luật quy định thì sự thỏa thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó [3].
Điều này có nghĩa là mặc dù là tài sản riêng nhưng được vợ hoặc chồng đưa vào sử dụng chung thì không đương nhiên tài sản đó là tài sản chung, tài sản riêng này được đưa vào sử dụng theo ý chí của chủ sở hữu hoặc theo Khoản 4 Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình thì tài sản riêng của vợ hoặc