Liên quan đến tư cách thương gia của thành viên nhận vốn thì có vấn đề cần bàn tới là thương gia được xác định trên các đặc điểm nào? Pháp luật của một số nước cho thấy thương gia được xác định dựa trên các đặc điểm:
+ Có những tổ chức, cá nhân đương nhiên là thương nhân khi họ tiến hành những hành vi thương mại nhất định như mua bán hàng hóa, giấy tờ có giá trị hoặc gia công hàng hóa cho người khác, làm dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ vận chuyển hành khác và hàng hóa, dịch vụ kho vận, đại diện, môi giới thương mại, đại lý…mà không phụ thuộc vào việc họ có đăng ký kinh doanh hay không.
+ Có những tổ chức, cá nhân xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của mình đăng ký trở thành thương nhân.
+ Có những tổ chức, cá nhân chủ động thành lập công ty thương mại để hoạt động thương mại thì đương nhiên trở thành thương nhân.
+ Ngoài các chủ thể nói trên, các tổ chức cá nhân kinh doanh với quy mô nhỏ, không đòi hỏi phải có cơ sở kinh doanh như một thương nhân bình thường thì không bắt buộc phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ của một thương nhân (tên thương mại) nhưng trong hoạt động thương mại họ được quyền và phải gánh vác nghĩa vụ như một thương nhân đầy đủ.
Luật Thương mại 2005 định nghĩa thương nhân: "Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh" [22].
Như vậy Luật Thương mại 2005 khi định nghĩa thương nhân mắc sai lầm là đăng ký kinh doanh lại trở thành điều kiện của thương nhân chứ không phải nghĩa vụ của thương nhân. Do đó, Luật Thương mại 2005 nên bỏ quy định "có đăng ký kinh doanh" trong khái niệm thương nhân và quy định cụ thể mang tính khái quát hơn: Thương nhân là tất cả những người tiến hành hoạt động thương mại và coi đó là nghề nghiệp thường xuyên của mình.
Bộ Luật Thương mại Trung phần của Việt Nam trước đây cũng quy định thành viên nhận vốn là thương gia. Do đó, thành viên nhận vốn phải ghi tên vào sổ thương mại và công bố hôn ước của mình. Thành viên nhận vốn cũng không được làm nghề nghiệp gì bất khả kiêm nhiệm với nghề thương gia. Nếu công ty hợp vốn đơn giản bị tuyên bố phá sản thì mỗi thành viên nhận vốn đương nhiên bị tuyên bố phá sản. Sở dĩ như vậy vì mỗi thành viên nhận vốn phải chịu liên đới và trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty, do đó mặc dù công ty hợp vốn đơn giản là một pháp nhân biệt lập, trách nhiệm của công ty được hỗn đồng với trách nhiệm bản thân của mỗi thành viên nhận vốn; vì thế sự phá sản của công ty lôi kéo luôn sự phá sản của thành viên nhận vốn.
Do tính chất chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty, các thành viên nhận vốn có quyền ngang nhau trong quản lý công ty; có một phiếu biểu quyết cho dù số vốn nhiều hay ít, đây là một khác biệt cơ bản so với thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần khi chỉ có một số lượng thành viên nhất định mới được tham gia quyền quản lý công ty. Quyền quản lý công ty được thể hiện ở chỗ các thành viên nhận vốn trực tiếp tham gia quản lý hoạt động kinh doanh của công ty, tham gia thảo luận và biểu quyết về tất cả các công việc của công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty; được sử dụng tài sản của công ty để phục vụ cho lợi ích của công ty; được nhận thông tin về các hoạt động kinh doanh và quản lý công ty, xem sổ kế toán và các hồ sơ khác của công ty. Ngoài ra, các thành viên nhận vốn còn có quyền rút khỏi công ty nếu được đa số các thành viên nhận vốn còn lại chấp thuận; có quyền yêu cầu công ty đổi tên nếu tên của thành viên nhận vốn đã rút khỏi công ty được sử dụng để đặt cho công ty. Thêm vào đó, khi rút khỏi công ty, phần vốn góp của thành viên nhận vốn được hoàn trả theo giá thỏa thuận hoặc theo giá được xác định dựa trên nguyên tắc được quy định trong Điều lệ công ty. Khác với các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, sau khi rút khỏi công ty,
thành viên nhận vốn vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của công ty đã phát sinh trước khi đăng ký việc chấm dứt tư cách thành viên với cơ quan đăng ký kinh doanh. Điều này là một đảm bảo đối với chính bản thân công ty và đối với các bên thứ ba khi tham gia giao dịch với công ty.
Có thể bạn quan tâm!
- Thành Lập Công Ty Hợp Vốn Đơn Giản
- Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Việt Nam - 5
- Quản Trị Và Điều Hành Công Ty Hợp Vốn Đơn Giản
- Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Việt Nam - 8
- Chuyển Đổi Và Giải Thể Công Ty Hợp Vốn Đơn Giản
- Thực Trạng Pháp Luật Việt Nam Về Công Ty Hợp Vốn Đơn Giản
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Thành viên nhận vốn có những nghĩa vụ như: Góp đúng số vốn đã cam kết góp vào công ty. Khác với thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hay cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty, thành viên nhận vốn của công ty hợp vốn đơn giản chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Cũng như chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Tuy nhiên, chế độ trách nhiệm của các thành viên nhận vốn ở đây là trách nhiệm liên đới, điều này có nghĩa là chủ nợ có quyền yêu cầu bất kỳ ai trong số các thành viên nhận vốn thực hiện nghĩa vụ đã cam kết ngay cả trong trường hợp nghĩa vụ này phát sinh do hành vi của thành viên nhận vốn khác nhân danh công ty thực hiện. Trách nhiệm liên đới này chỉ giới hạn trong phạm vi nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động của công ty, nếu nghĩa vụ phát sinh doa hoạt động của một cá nhân thành viên nhận vốn nào đó không nhân danh công ty thì ở đây sẽ không phát sinh trách nhiệm liên đới mà là trách nhiệm của thành viên đó.
Trong trường hợp công ty kinh doanh bị thua lỗ thì các thành viên nhận vốn phải chịu lỗ theo nguyên tắc đã được các thành viên thống nhất thỏa thuận trong Điều lệ công ty. Trong quá trình quản lý công ty hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty hay đại diện cho công ty các thành viên nhận vốn hoạt động một cách trung thực, mẫn cán phục vụ lợi ích hợp pháp của công ty. Hơn nữa, do đặc điểm của công ty hợp vốn đơn giản là loại công ty đối nhân được thiết lập chủ yếu dựa trên nền tảng tin cậy, hiểu biết lẫn nhau nên đảm bảo tính ổn định trong hoạt động kinh doanh cho công ty, đảm bảo khả năng tồn tại cho công ty thì thành viên nhận vốn không đồng thời là thành viên hợp danh của công ty hợp danh, chủ doanh nghiệp tư nhân
hoặc thành viên nhận vốn của công ty hợp vốn đơn giản khác. Thành viên nhận vốn không được tự mình hoặc nhân danh người thứ ba thực hiện hoạt động kinh doanh trong cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty, hơn nữa thành viên nhận vốn trong công ty hợp vốn đơn giản không được nhân danh công ty ký kết hợp đồng, xác lập và thực hiện các giao dịch khác nhằm thu lợi cho cá nhân và cho người khác. Điều này, cũng được pháp luật các nước ghi nhận, nghĩa vụ không được cạnh tranh với công ty của thành viên nhận vốn xuất phát từ chế độ trách nhiệm vô hạn của các thành viên này, thêm vào đó, công ty hợp vốn đơn giản thường hoạt động trong lĩnh vực đặc thù đòi hỏi chuyên môn cũng như uy tín nghề nghiệp cao của các thành viên nhận vốn, do vậy nếu một thành viên nhận vốn trong công ty hợp vốn đơn giản tự bản thân minh tiến hành các hoạt động trùng với lĩnh vực hoạt động của công ty thì điều này không chỉ ảnh hưởng tới công ty mà quan trọng hơn là nó có thể gây thiệt hại tới các thành viên góp vốn và thành viên nhận vốn còn lại trong công ty.
Tư cách thành viên nhận vốn trong công ty hợp vốn đơn giản chấm dứt khi thành viên đó chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, hoặc khi thành viên nhận vốn mất tích hoặc bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, trong trường hợp này thì công ty hợp vốn đơn giản vẫn có quyền sử dụng tài sản tương ứng với trách nhiệm của thành viên đó để thực hiện nghĩa vụ của công ty. Tư cách thành viên nhận vốn của công ty hợp vốn đơn giản được coi là tài sản thừa kế.
- Thành viên góp vốn
Thành viên góp vốn là người góp vốn cho công ty hoạt động. Danh tính của thành viên góp vốn được ghi trong hợp đồng trước khi đăng ký kinh doanh và hồ sơ đăng ký kinh doanh. Nhưng khi công bố thành lập công ty hợp vốn đơn giản, sẽ không được trích đăng danh tính của thành viên góp vốn, chỉ trích đăng số vốn đóng góp. Điều 58 Bộ Thương mại Trung phần quy định: "Danh tính của người xuất tư được ghi trong khế ước lập hội.
Nhưng khi khế ước được trích đăng để công bố lập hội, sẽ không được trích đăng danh tính của người cấp vốn, chỉ trích đăng tổng số ngân khoản được cấp" [2].
Trong trường hợp người thứ ba cũng có thể biết rõ thành viên góp vốn bằng cách tham khảo Điều lệ công ty tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Nếu thấy thành viên góp vốn là một nhà đầu tư lớn, người thứ ba có thể đo lường được sự tín nhiệm có thể đặt vào thành viên nhận vốn.
Thành viên góp vốn tuy là thành viên của công ty thương mại nhưng không vì thế mà có tư cách thương gia. Hành vi của thành viên góp vốn vào công ty để buôn bán là một hành vi thương mại nhưng chính thành viên này không phải là thương gia.
Khác với thành viên nhận vốn, các thành viên góp vốn không nhất thiết phải là cá nhân. Các tổ chức, pháp nhân cũng có thể trở thành thành viên góp vốn trong công ty hợp vốn đơn giản. Các đối tượng không được tham gia góp vốn vào doanh nghiệp nói chung và công ty nói riêng được quy định tại Khoản 4 Điều 13 Luật Doanh nghiệp:
+ Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
+ Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Như vậy những người nước ngoài, tổ chức nước ngoài không thường trú tại Việt Nam có thể trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp vốn đơn giản vì họ không thuộc đối tượng bị cấm góp vốn vào doanh nghiệp. Để cụ thể hóa điều này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm: Tổ chức kinh tế tài chính nước ngoài, người nước ngoài thường trú và không thường trú ở Việt Nam và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Theo đó các nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn có thể góp một phần vốn (không vượt quá 30% vốn Điều lệ của công ty) vào công ty hợp vốn đơn giản và trở thành thành viên góp vốn của công ty này, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như một thành viên góp vốn thông thường. Tuy nhiên, thẩm quyền quyết định nhà đầu tư góp vốn vào công ty hợp vốn đơn giản hoàn toàn do các thành viên nhận vốn quyết định.
Nghĩa vụ của các thành viên góp vốn:
+ Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp;
+ Không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành công việc kinh doanh nhân danh công ty;
+ Tuân thủ Điều lệ, nội quy công ty và quyết định của Hội đồng thành viên;
+ Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty. Quyền của thành viên góp vốn:
+ Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ chức lại và giải thể công ty và các nội dung khác của Điều lệ công ty có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ;
+ Được chia lợi nhuận hằng năm tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty;
+ Được cung cấp báo cáo tài chính hằng năm của công ty; có quyền yêu cầu Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên nhận vốn cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin về tình hình và kết quả kinh doanh của công ty; xem xét sổ kế toán, sổ biên bản, hợp đồng, giao dịch, hồ sơ và tài liệu khác của công ty;
+ Chuyển nhượng phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác;
+ Nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác tiến hành kinh doanh các ngành, nghề đã đăng ký của công ty;
+ Định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách để thừa kế, tặng cho, thế chấp, cầm cố và các hình thức khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty; trường hợp chết hoặc bị Tòa tuyên bố là đã chết thì người thừa kế thay thế thành viên đã chết trở thành thành viên góp vốn của công ty;
+ Được chia một phần giá trị tài sản còn lại của công ty tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản;
+ Các quyền khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
1.4.1.2. Quản lý công ty
Do tính chất chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty, các thành viên nhận vốn có quyền ngang nhau trong quản lý công ty, thành viên góp vốn không được quyền được quản lý công ty nhưng được quyền hưởng lợi ích hợp pháp từ số vốn đã góp vào công ty của mình. Việc không thừa nhận quyền quản lý công ty hợp vốn đơn giản của các thành viên góp vốn không có nghĩa là không tuân thủ nguyên tắc công bằng giữa các thành viên công ty trong quan hệ với bên ngoài cũng như trong nội bộ công ty. Nhưng trong hoạt động của công ty cũng phải có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động của công ty. Những thành viên nhận vốn góp vốn bằng "chất xám" và sử dụng "chất xám" để sinh lợi nhuận cho nên hơn ai hết họ hiểu được họ cần phải làm như thế nào để có hiệu quả nhất, mặt khác do thành viên nhận vốn có trách nhiệm vô hạn nên buộc họ phải cẩn trọng trong kinh doanh. Từ lý do đó, luật trao cho những thành viên nhận vốn quyền quản lý, điều hành công ty là hợp lý, vừa đảm bảo lợi ích của chính họ, lại vừa đảm bảo lợi ích của công ty. Đối với thành viên góp vốn, ngoài những nghĩa vụ chung với công ty như phải góp đủ vốn, chấp hành đúng nội quy công ty, không tham gia quản lý công ty thì họ
phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty trong phần vốn góp của công ty. Chính vì thế các thành viên góp vốn sẽ có thể không cẩn trọng đến mức tối đa nếu trao quyền quản lý cho họ, việc này sẽ làm tổn hại đến những thành viên nhận vốn và gia đình những thành viên nhận vốn.
Trong quan hệ bên ngoài, rõ ràng pháp luật chỉ công nhận quyền của các thành viên nhận vốn, các thành viên góp vốn không có quyền nhân danh công ty để hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp không quy định rõ trường hợp, nếu các thành viên góp vốn vẫn tham gia quan hệ với bên ngoài và nhân danh công ty thì sẽ phải chịu trách nhiệm như thế nào, giới hạn trách nhiệm đến đâu? Trong khi đó, luật pháp của các nước khác quy định rõ ràng về vấn đề này. Tại Điều 1088 Bộ luật Dân sự Thái Lan quy định: "Nếu một hội viên có trách nhiệm hữu hạn can thiệp vào việc điều hành hội kinh doanh, thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với nghĩa vụ của hội kinh doanh đó" [3].
Hoặc tại Điều 159 Bộ luật Thương mại Nhật Bản quy định:
Khi một hội viên có trách nhiệm hữu hạn hành động theo một cách tính toán để người khác tin họ là một hội viên có trách nhiệm vô hạn thì người đó chịu trách nhiệm dường như chính người đó là một hội viên có trách nhiệm vô hạn đối với bất cứ ai đã tiến hành giao dịch với công ty trên cơ sở tin tưởng họ [27].
Cũng trên tinh thần đó, Luật Công ty của Pháp quy định: "Người hội viên xuất vốn không nên có cư xử giống như người hội viên quản trị để cho người ngoài lầm tưởng là họ có trách nhiệm vô hạn, nếu ông ta không tự khẳng định vai trò của mình sẽ bị mất quyền lợi về trách nhiệm hữu hạn" [28].
Ngay trong pháp luật về công ty của Cộng hòa Liên bang Đức cũng quy định rõ trường hợp này: "Về đối ngoại, chỉ các thành viên nhận vốn mới có quyền đại diện cho công ty. Nếu thành viên góp vốn đứng ra thay mặt công ty thì sẽ mất quyền chịu trách nhiệm hữu hạn" [13].