Nhu Cầu Đặc Trưng Của Tuổi Vị Thành Niên

về kinh nguyệt, về việc vệ sinh thân thể. Trẻ VTN nam có thể lo lắng về hiện tượng mộng tinh.

Ở thời kì này, việc các em bắt đầu tách khỏi cha mẹ và thiết lập bản sắc cá nhân là bình thường. Trong nhiều trường hợp, việc độc lập hóa này không kèm theo các biểu hiện khủng hoảng và khó khăn với gia đình, người thân, cô giáo. Tuy vậy, rất nhiều trường hợp, sự “nổi dậy” ở trẻ VTN có thể dẫn đến các xung đột vì bố mẹ vẫn muốn kiếm soát, điều khiển con cái.

Vì trẻ VTN dần tách khỏi cha mẹ để tìm và khẳng định bản sắc riêng, sự độc lập của bản thân mình, bạn bè đồng trang lứa lại trở nên quan trọng hơn.

Nhóm bạn có thể là nơi trú ẩn an toàn của trẻ VTN. Ở đó, trẻ VTN có thể thử các ý tưởng mới.

Ở đầu vị thành niên, các nhóm bạn thường không có các quan hệ lãng mãn, thường mang tính chất là hội, nhóm. Các thành viên của nhóm thường hành động giống nhau, ăn mặc giống nhau, có những bí mật hoặc nghi thức của nhóm và các thành viên cùng tham gia chung vào các hoạt động.

Khi bước vào giữa hoặc cuối vị thành niên (14-18 tuổi), các nhóm bạn có thể bao gồm các mối quan hệ lãng mạn, yêu đương.

Ở thời kì giữa (14-16 tuổi) đến cuối vị thành niên (16-18 tuổi), các em thường cảm thấy nhu cầu định hình bản sắc giới tính bằng các trải nghiệm thử-sai để tìm được hình thức thỏa mãn nhất về ngoại hình, cơ thể và các cảm xúc tính dục. Thông qua các mối quan hệ lãng mạn, hẹn hò, trải nghiệm, các em học được cách biểu hiện và đón nhận các cử chỉ, giao cảm thân mật giữa nam và nữ. Những bạn không có cơ hội trải nghiệm những điều này ở tuổi vị thành niên có thể sẽ gặp khó khăn trong các quan hệ thân mật khi trưởng thành.

2. An toàn

Một vấn đề thường đặt ra ở tuổi vị thành niên là an toàn. Các em trở nên mạnh hơn về thể chất, và mong muốn độc lập hơn trước nhưng các em vẫn chưa đủ kĩ năng và kiến thức như người lớn để có những quyết định đúng đắn. Với nhu cầu khẳng định bản thân, các em rất dễ thực hiện những hành động nguy hiểm. Đôi khi, chỉ để được sự nhìn nhận, công nhận của nhóm bạn, các em có thể thực hiện các “kỳ tích”, “ngón nghề” nguy hiểm hoặc tham gia vào các hành vi có nguy cơ.

chứng minh mình sử dụng các phương tiện đó một cách an toàn.

An toàn giao thông, xe máy, nguy cơ sử dụng các chất kích thích nên được lưu ý. Các em không nên được trao quyền sử dụng ô tô hoặc xe máy, chỉ trừ khi các em có thể

Nếu vị thành niên có vẻ cô lập với nhóm bạn, không hứng thú với các việc trường lớp hoặc hoạt động xã hội, hoặc học, làm các công việc không tốt, các em này cần được đánh giá tâm lý.

Nhiều vị thành niên cũng có nguy cơ cao về trầm cảm hoặc tự tử, hoặc tự hủy hoại bản thân bởi các áp lực hoặc xung đột trong gia đình, trường lớp, xã hội, nhóm bạn hoặc trong các quan hệ thân mật.

3. Giáo dục giới tính

Vị thành niên luôn cần sự riêng tư để hiểu về các thay đổi diễn ra ở cơ thể mình. Một cách lý tưởng, trẻ VTN cần những không gian riêng tư. Trêu chọc vị thành niên về các thay đổi về thể chất là không phù hợp. Người lớn cũng cần nhớ rằng việc các em quan tâm đến những thay đổi cơ thể và chủ đề về tính dục, tình dục là tự nhiên và bình thường về phát triển. Trẻ VTN cũng sẽ thử nghiệm, hoặc cân nhắc rất nhiều các loại hành vi, định hướng, biểu hiện mang tính tính dục trước khi tìm thấy bản sắc giới tính phù hợp với bản thân mình. Người lớn nên cẩn trọng, không nên gọi các hành vi đó là “sai trái”, “kì quặc”, “hư hỏng”, v.v.

4. Độc lập và đấu tranh quyền lực

Đòi hỏi được độc lập của các em thiếu niên là sự phát triển bình thường. Người lớn không nên coi đó là sự phủ nhận hoặc mất đi quyền lực đối với trẻ VTN. Người lớn cần cương quyết và nhất quán. Người lớn cần đóng vai trò như chỗ dựa vững chắc cho các ý tưởng của trẻ VTN nhưng không thống trị, lấn át bản sắc độc lập đang hình thành ở trẻ VTN.

Mặc dù trẻ VTN luôn có xu hướng thách thức, “thử sức” người lớn - những người nắm quyền, các em vẫn cần hoặc muốn các giới hạn, như là một khuôn khổ, biên giới an toàn cho trẻ VTN phát triển và hành động. Đặt ra các giới hạn có nghĩa là có các nguyên tắc và luật lệ về hành vi đã được thống nhất giữa cha mẹ và trẻ VTN.

Đấu tranh quyền lực xuất hiện khi người lớn thường cảm thấy bị mất quyền lực, nên càng áp đặt hoặc cho rằng người lớn “luôn đúng”. Tình trạng này nên tránh. Một trong hai bên (thường là các em) sẽ bị thua, và dẫn đến trẻ VTN sẽ cảm thấy “mất mặt”. Điều này sẽ dẫn đến trẻ VTN cảm thấy ngượng, hoặc không thỏa đáng, phẫn uất, bực bội và chống đối.

Các tranh luận sẽ luôn diễn ra khi các em nói chuyện với người lớn và các em sẽ liên tục “thách thức” người lớn. Tạo điều kiện để giao tiếp cởi mở, rõ ràng, các giới hạn và kỷ luật có thể thương thảo được có thể giúp giảm bớt các xung đột nghiêm trọng.

III.Nhu cầu đặc trưng của tuổi vị thành niên

Như bất cứ một trẻ em nào, ngoài các nhu cầu sinh lý như ăn, uống, thở, v.v. để duy trì sự sống, các em có các nhu cầu tâm lý - xã hội cơ bản, đảm bảo cho trẻ VTN phát triển tốt là:

An toàn

Hiểu, cảm thông

Yêu thương

Có giá trị

Tôn trọng


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

Công tác xã hội trong lĩnh vực sức khoẻ tâm thần - 12

Ngoài ra, với đặc trưng của tuổi vị thành niên, các em còn có các nhu cầu đặc biệt. Để giúp các em phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, người lớn không những cần đáp ứng các nhu cầu cơ bản mà còn cần đáp ứng các nhu cầu riêng biệt của các em.

1. Nhu cầu sinh lý

a) Nhu cầu về hoạt động: Các hoạt động ở dạng này hay dạng khác là một phần tích hợp trong hoạt động của vị thành niên. Các thay đổi sinh lý của dậy thì, lực cơ mạnh hơn, dư thừa năng lượng, tất cả đều góp phần làm tăng nhu cầu hoạt động. Cần kiểm soát nhu cầu về hoạt động và hướng đến các kênh phù hợp như thể thao hoặc vui chơi lành mạnh, chẳng hạn khiêu vũ, bơi lội, bóng đá, v.v.

b) Nhu cầu thỏa mãn tính dục: Sự phát triển tính dục là thực tế căn bản ở vị thành niên. Bản năng tính dục tiềm ẩn ở thời ấu thơ được đánh thức. Ở thời vị thành niên, các em lặp lại 3 giai đoạn phát triển tính dục:

+ Ái kỉ: Các em quan tâm, yêu thích cơ thể của chính mình và tự tìm hiểu, khám phá cơ quan sinh dục của mình.

+ Tính dục đồng giới: Ở thời đầu vị thành niên, các em nam thường thích chơi cùng bạn nam và các em nữ thích chơi với bạn nữ.

+ Tính dục khác giới: Ở thời cuối vị thành niên, các em nam và nữ bị hấp dẫn bởi bạn khác giới và thích các bạn khác giới.

2. Nhu cầu tâm lý

a) Thử các giá trị và hình thành giá trị bản thân: Các em bắt đầu quyết định lựa chọn các giá trị định hướng cuộc đời mình. Có khả năng tư duy trừu tượng, các em chất vấn các giá trị các em đang sống cùng. Các em thử các giá trị do cha mẹ, nhà trường chỉ dạy bằng các thử nghiệm khác nhau và tìm kiếm các trải nghiệm mới như quần áo, đầu tóc, bạn bè, các hoạt động.

mong muốn tự chủ, có thể tự quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc sống của các em.

b) Độc lập, tự do, tự chủ: Trải qua thời ấu thơ nhưng chưa thành người lớn, các em đang cố gắng để xác định các em đang ở đâu trong cuộc đời và các em là ai. Các em đang chuẩn bị để trở nên độc lập. Do vậy, các em không chấp nhận sự áp đặt. Các em

Nếu người lớn đối xử và dạy dỗ các em giống như cách đối xử với trẻ con, các em sẽ phàn nàn người lớn thuyết giảng, “lên lớp” và dễ trở nên chống đối, nổi loạn, có thái độ bất cần.

c) Được chấp nhận: Được chấp nhận hoặc ghi nhận là nhu cầu của tất cả mọi người, nhu cầu này ở vị thành niên mạnh hơn nhiều. Dù ý kiến của các em như thế nào, người lớn nên sẵn sàng lắng nghe, kể cả khi người lớn không đồng tình với ý kiến đó. Nên suy nghĩ theo cách các em suy nghĩ và đặc biệt tránh phán xét, chỉ trích các em. Sự chấp nhận nên được biểu hiện bằng việc khuyến khích, động viên các em. Điều này giúp các em củng cố được tự trọng cũng như thúc đẩy động cơ cố gắng ở các em.

d) Cho và nhận tình cảm: Vị thành niên có nhu cầu cho và nhận tình cảm. Giúp các em đương đầu với các cảm xúc là rất cần thiết. Người lớn cần giải thích với các em rằng ai cũng có các cảm xúc như thất vọng, buồn, chán, tức giận, thích thú, phấn khích. Vấn đề là cần biểu hiện chúng một cách phù hợp với mọi người. Ngoài ra, cha mẹ cần biểu hiện tình yêu thương vô điều kiện với các em dù tình huống gì xảy ra, thậm chí nếu các em làm thất vọng, không tôn trọng hay gây tức giận cho cha mẹ, vì các em cần tình yêu của cha mẹ và được cảm thấy an toàn. Khi các em thất bại ở trường, các em cần sự động viên từ cha mẹ chứ không phải sự thuyết giảng.

e) Thực hiện các hành vi nguy cơ: Ở tuổi này, trẻ VTN tò mò thử nghiệm mọi thứ mà không để ý đến hậu quả. Kết quả của các hành vi này sẽ giúp trẻ VTN có kiến thức thực tế về thế giới xung quanh.

f) Nhu cầu chỉ dẫn và giới hạn: Các em cần người lớn đưa ra các giới hạn, vì trẻ VTN đang thiếu thận trọng, suy nghĩ chưa đủ sâu sắc. Quá nhiều tự do sẽ gây ra bất an. Mặc dù các em nghĩ rằng các em tự lo được cho mình, trên thực tế, các em cần một môi trường an toàn, yêu thương như gia đình hoặc lớp học cũng như rất nhiều chỉ dẫn để hướng các em đến các con đường lành mạnh. Trao đổi với các em về nguyên tắc, luật lệ và hướng dẫn các em giải quyết các xung đột. Khi người lớn đã đặt ra các giới hạn, có thể để các em tự quyết trong giới hạn đó, để các em chịu trách nhiệm. Đó là việc cần làm để giúp các em đi đến độc lập.

IV. Các vấn đề hướng nội

Các vấn đề hướng nội là những vấn đề liên quan đến thuộc về bản thân, biểu hiện các triệu chứng được hướng vào bên trong như trầm cảm và lo âu. Các vấn đề hướng ngoại được đặc trưng bởi các hành vi hướng ra bên ngoài, hướng đến người khác như chống đối xã hội, rối loạn hành vi.

VTN hay ở các cơ sở khác liên quan đến chăm sóc trẻ em cần phải có những kiến thức cơ

Nhân viên công tác xã hội, dù có làm việc trong cơ sở chăm sóc SKTT trẻ em và

bản về các dạng rối loạn hướng nội, rối loạn hướng ngoại, rối loạn phát triển thường gặp ở trẻ em và VTN, các biểu hiện triệu chứng, những hỗ trợ ban đầu.

1. Trầm cảm

Theo số liệu của Hoa Kì, khoảng 11% vị thành niên Hoa kì có rối loạn trầm cảm. Nữ thường mắc trầm cảm nhiều hơn nam. Theo số liệu của tổ chức Y tế thế giới, trầm cảm chính là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thiểu năng ở những công dân Hoa Kì từ 15-44 tuổi (WHO, 2001). Các nghiên cứu ở các nước phát triển đều cho thấy trầm cảm là rối loạn tâm lý phổ biến nhất ở vị thành niên (Graber 2004). Ở Việt Nam, chưa có con số chính xác về tỉ lệ vị thành niên mắc bệnh trầm cảm nhưng gần đây cũng cho thấy dấu hiệu có nhiều em có những biểu hiện triệu chứng này. Trầm cảm ảnh hưởng đến nhiều mặt của cuộc sống của trẻ và nếu không được chữa trị, có thể dẫn đến các vấn đề khác ở trường hay ở nhà như lạm dụng chất kích thích, ghét bản thân mình và thậm chí tự tử.

Các biểu hiện trầm cảm ở trẻ em phần nào cũng tương tự như trầm cảm ở người lớn, với các nhóm dấu hiệu xung quanh: suy nghĩ, hành động, cảm xúc. Các em thường đối mặt với nhiều áp lực, từ những thay đổi tuổi dậy thì đến những chất vấn về bản thân như mình là ai, mình thuộc về đâu. Sự chuyển tiếp tự nhiên này thường làm cho trẻ có những phút “tư lự”, buồn. Do đó, phân biệt giữa trầm cảm và sự buồn bình thường ở các em là không dễ. Thậm chí phức tạp hơn, trẻ trầm cảm không nhất thiết có biểu hiện buồn hoặc thu mình. Đôi khi, các em lại có biểu hiện là dễ bực mình, hung hăng, cáu giận thường xuyên.

a) Nhận diện dấu hiệu


Buồn hoặc vô vọng

Cáu kỉnh, tức giận hoặc hận thù Hay khóc hoặc sướt mướt

Thu mình khỏi bạn bè và gia đình Mất hứng thú trong các hoạt động

Thay đổi thói quen ăn và ngủ

Bất an và kích động

Cảm thấy tội lỗi và vô giá trị Thiếu động cơ và nồng nhiệt Mệt mỏi hoặc thiếu năng lượng Khó tập trung

Có ý tưởng tự tử


Ở một số trường hợp, sự thay đổi hành vi một cách bất thường, hoặc trẻ xuất hiện các vấn đề ở trường hoặc ở nhà mà không có triệu chứng trầm cảm nào liệt kê ở trên. Đây cũng có thể là dấu hiệu của trầm cảm:

Các hành vi vô thức bộc lộ ra bên ngoài như (quên mất kỷ luật, không tuân thủ/chống đối đột ngột mà trẻ trước đó không như vậy)

Các hành vi tội phạm (như lấy trộm)

Hành vi vô trách nhiệm

Học tập ở trường kém, lưu ban

Tách ra khỏi gia đình và bạn, dành nhiều thời gian một mình

Dùng rượu hoặc các chất không hợp pháp

Nếu các biểu hiện này kéo dài ít nhất 2 tuần và ảnh hưởng đến tâm trạng cũng như các năng lực, chức năng cuộc sống, trẻ cần được khám nghiệm hoặc đánh giá tâm lý bởi các nhà chuyên môn (bác sĩ nhi, bác sĩ tâm thần, cán bộ tâm lý lâm sàng).

b) Hậu quả của trầm cảm

Trẻ có trầm cảm không chỉ dừng ở việc có các tâm trạng bất ổn, u sầu. Rất nhiều hành vi hoặc thái độ nổi loạn và không lành mạnh ở trẻ là biểu hiện của trầm cảm. Dưới đây là các cách thức tiêu cực mà các em thường sử dụng để giải tỏa cảm xúc u buồn:

Những vấn đề ở trường. Trầm cảm thường gây ra thiếu sinh lực và khó tập trung. Điều này có thể dẫn đến trẻ hay nghỉ học, lưu ban hoặc bức xúc với bài tập, nhiệm vụ ở trường.

Bỏ nhà: Thiếu niên trầm cảm có thể bỏ nhà hoặc đề cập đến bỏ nhà đi.

Lạm dụng rượu và ma túy: Các em thường dùng rượu hoặc ma túy trong cố gắng “tự chữa” trầm cảm.

Tự trọng thấp: Trầm cảm có thể kích hoạt và làm mạnh lên những cảm xúc về vô giá trị, không đáng giá, xấu xí, v.v.

Nghiện internet: Các em có thể vào mạng để trốn thoát khỏi vấn đề của mình. Việc dùng máy tính quá độ sẽ tăng sự cô lập và khiến trầm cảm càng nặng.

Các hành vi liều lĩnh, đặc biệt ở VTN: Trẻ VTN trầm cảm có thể tham gia vào các hành vi nguy hiểm hoặc nguy cơ cao như lái xe liều lĩnh, uống rượu liều lĩnh, vô độ hay tình dục không an toàn.

Bạo lực: Một số em (thường là nam, nạn nhân của bắt nạt) trở nên bạo lực.

Trầm cảm vị thành niên cũng thường đi kèm với các vấn đề sức khỏe tâm thần khác như rối loạn ăn uống và tự gây thương tích cho bản thân (tự cắt, rạch da, v.v).

Hiện nay, các nghiên cứu chỉ ra rằng phác đồ điều trị trầm cảm hiệu quả nhất là kết hợp trị liệu hóa dược (thuốc) và trị liệu tâm lý (Stark, Sandereta, 2006). Những ý tưởng để hỗ trợ tâm lý xã hội cơ bản bao gồm:

Lắng nghe: Cho trẻ biết là bạn lắng nghe và là nơi trẻ có thể chia sẻ. Hơn bất cứ lúc nào, trẻ cần biết được rằng mình vẫn có giá trị, được chấp nhận và được quan tâm.

Thấu hiểu: Sống cùng căn bệnh trầm cảm là trải nghiệm đau đớn và kiệt sức. Trẻ trải qua sự vô vọng, bị chối bỏ, mất niềm tin, bực bội và các cảm xúc tiêu cực khác. Trẻ có thể biểu hiện bằng việc không hứng thú nói chuyện, mất tập trung v.v. Trẻ không cố tình như vậy. Trẻ đang chịu đựng đau khổ và mong được thấu hiểu, ghi nhận cảm xúc của trẻ.

Khuyến khích các hoạt động thể chất: Khuyến khích các em luôn chủ động. Các hoạt động thể chất giúp giảm đi các biểu hiện trầm cảm một cách hiệu quả. Do đó, tư vấn, khuyến khích trẻ thực hiện các hoạt động thể chất hàng ngày, có thể từ những việc rất nhỏ như đi đổ rác, quét nhà, v.v.

Khuyến khích các hoạt động xã hội: Cô lập làm trầm cảm càng tăng thêm, do đó khuyến khích các em gặp bạn bè và khen ngợi những cố gắng giao tiếp của các em.

Duy trì can thiệp: Động viên trẻ thực hiện những chỉ dẫn trị liệu và đến gặp nhà chuyên môn đều đặn như kế hoạch.

Dạy trẻ các kĩ năng: Kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng đặt mục tiêu.

Xây dựng hệ thống liên lạc giữa gia đình và nhà trường: Nhân viên công tác xã hội có thể là cấu nối giữa gia đình và nhà trường trao đổi thường xuyên với gia đình về học tập, hành vi, cảm xúc của trẻ cũng như các chiến lược hỗ trợ trẻ mà nhà trường và gia đình đang thực hiện, cũng như tìm kiếm các nguồn lực.

2.Tự tử

Hành vi tự tử (suicidal behaviour) theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới bao gồm 3 thành phần: ý tưởng tự sát (chỉ thể hiện trong ý nghĩ); toan tự sát (có hành vi để tự tử, nhưng không thành công) tự sát (có hành vi tự tử đi đến tử vong). Theo những số liệu thống kê về tỉ lệ tự tử chung của thế giới của nhóm tuổi từ 12-15 là 97-131 người/100.000 dân; nhóm tuổi từ 16-20 là 277-341 người/ 100.000 dân. Tỉ lệ này đang có xu huớng gia tăng và trẻ tuổi hoá. Dự báo của Tổ chức Y tế thế giới đến năm 2020, tự tử sẽ là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở các nước phát triển và hàng thứ 2 ở các nước đang phát triển.

Ở Việt Nam, tự tử trong thanh thiếu niên cũng có xu hướng trẻ hóa và gia tăng. Qua các phương tiện truyền thông đại chúng gần đây, chúng ta từng biết đến những vụ tự tử hết sức thương tâm của các em học sinh vì những lý do không đáng như thi trượt đại học, bị bố mẹ mắng, bị phát hiện quay cóp hay do nợ nần,v.v.

Những dấu hiệu báo động tự tử ở vị thành niên

Nói hoặc đùa về việc sẽ tự tử.

Nói những câu như “ Em/con thà chết còn hơn”, “Em ước là em có thể biến mất mãi mãi”, “Hết đường rồi”, v.v.

Nói về chết một cách tích cực hoặc lãng mạn hóa việc chết (“nếu em chết, mọi người sẽ yêu em hơn”, “sống để làm gì?”, “Cô sẽ nhanh chóng không khó chịu với em nữa đâu” v.v.).

Viết chuyện, thơ về cái chết, việc chết hoặc tự tử.

Tham dự các hành vi liều lĩnh hoặc có rất nhiều lần bị tai nạn dẫn đến thương tích; tự làm đau bản thân (tự cứa tay, cắt tay).

Cho đi những vật sở hữu có giá trị.

Tâm trạng tốt lên bất ngờ và không có lý do sau khi bị trầm cảm hoặc thu mình.

Nói tạm biệt với bạn, gia đình như là chia tay mãi mãi.

Không chú ý đến hình thức, vẻ ngoài hoặc vệ sinh cá nhân.

Tìm vũ khí, thuốc hoặc những dụng cụ, cách thức khác có thể tự hại bản thân.

3. Rối loạn lo âu

Tất cả mọi người đều từng trải qua lo âu. Đó là cảm xúc tự nhiên và quan trọng, báo hiệu sự xuất hiện của lo lắng, sợ hãi và cảnh báo nguy hiểm hoặc sự thay đổi bất ngờ, đáng sợ đang đến gần. Ở một số người, lo âu có thể quá mức, không hợp lý, không lành mạnh. Khi lo âu trở nên thường trực, ở cường độ cao, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng trẻ đến trường hoặc học tập hoặc những việc khác như tham gia các hoạt động ngoại khóa, kết bạn và chơi với bạn, duy trì các mối quan hệ tốt thì đó là biểu hiện của lo âu bệnh lý - rối loạn lo âu. Lo âu có thể nhằm đến một đối tượng, sự việc cụ thể những cũng có dạng lo âu lan tỏa, sang mọi thứ.

a) Nhận diện dấu hiệu

Rối loạn lo âu rất khác biệt đối với từng trẻ. Triệu chứng chung thường là những sợ hãi, lo lắng quá mức, có cảm giác bất an trong người và có xu hướng thận trọng và cảnh giác quá mức. Mặc dù không có sự đe dọa thực sự nguy hiểm, các em thường có những cảm giác căng thẳng liên tục, bất an hoặc stress quá mức.

Ở các nơi có tính xã hội, các em có rối loạn lo âu thường phụ thuộc, thu mình, lo lắng, bứt rứt. Các em có thể có vẻ quá dè dặt, kìm chế hoặc quá cảm xúc. Các em có thể bận tâm với những lo lắng về mất kiểm soát hoặc các lo âu không thực tế về năng lực xã hội.

Những em có các lo âu thường xuyên cũng thường trải nghiệm các triệu chứng đau cơ thể. Các em có thể than phiền về căng cơ hoặc chuột rút, đau bụng, đau đầu, đau cơ hoặc lưng, mệt mỏi, và khó chịu.

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 22/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí