gian. Mặt khác, tại một số địa phương, vẫn còn một bộ phận công chức chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao; chất lượng tham mưu, đề xuất các vụ việc chuyển đơn còn lòng vòng; công tác phối hợp, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chưa được thường xuyên, kết nối thông tin chưa đầy đủ, chưa đảm bảo nguyên tắc kịp thời trong công tác tiếp công dân [2].
Pháp luật tiếp công dân quy định không đồng bộ giữa “tiếp công dân” và “giải quyết đơn thư”. Tiếp công dân theo pháp luật tiếp công dân; xử lý đơn thư theo pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị. Ban tiếp công dân các cấp chỉ có trách nhiệm tiếp nhận, phân loại rồi chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhưng không tham gia giải quyết, kết luận. Trong khi đó, công dân đến Trụ sở tiếp công dân khiếu nại, tố cáo chỉ biết gửi đơn và thu lại kết quả tại chính nơi gửi đơn. Bất cập chính là cán bộ tiếp công dân không thể trả lời cho công dân được về kết quả xử lý đơn thư cũng như quá trình giải quyết đang ở giai đoạn nào, bao lâu thì có kết luận (hoặc có quyết định). Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đơn thư gửi lòng vòng, vượt cấp, kéo dài, đặc biệt là mất lòng tin của dân đối với cơ quan tiếp công dân [2].
Việc tích hợp về thông tin giải quyết giữa các đơn vị vẫn chưa được triển khai một cách hiệu quả, dẫn đến các vụ việc đã được giải quyết rồi nhưng công dân vẫn gửi đơn lòng vòng gây ra tình trạng đơn thư được gửi đi nhiều cấp và vượt cấp một cách không kiểm soát, số lượng đơn thư tăng vọt nhưng không có nội dung mới, gây tình trạng nhũng loạn đơn thư trong quá trình giải quyết của các cấp, các ngành.
Vì vậy, để tránh tình trạng phát sinh nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo, KNPA yêu cầu pháp luật phải được thống nhất. Nếu chưa được thống nhất thì cần phải được sửa đổi, bổ sung để giải quyết khiếu nại của công dân được
thực hiện theo một chuẩn mực chung, tránh trường hợp mỗi cơ quan giải quyết khác nhau, làm thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của công dân.
1.3.1.2. Điều kiện dân trí
Trình độ dân trí của người dân phản ánh sự nhận thức về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật. Trình độ dân trí bao gồm: các hiểu biết thông thường, kiến thức pháp luật, hiểu biết xã hội...
Ở điều kiện trình độ dân trí thấp, nhận thức của người dân về pháp luật còn hạn chế thì việc chấp hành pháp luật của người dân cũng bị hạn chế. Công dân ở những vùng khó khăn và trình độ dân trí còn thấp thì việc nhận thức và chấp hành pháp luật còn khó khăn và nhiều khi không thể thực hiện được vì khả năng hiểu và nhận biết kiến thức không có trong tiềm thức của họ.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Về Công Tác Tiếp Công Dân Tại Các Cơ Quan Chuyên Môn Thuộc Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh
- Công Tác Tiếp Công Dân Tại Các Cơ Quan Chuyên Môn Thuộc Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh
- Quy Trình Tiếp Công Dân Tại Các Cơ Quan Chuyên Môn Thuộcủy Ban Nhân Dân Tỉnh
- Vị Trí Địa Lý, Điều Kiện Dân Cư Của Tỉnh Đắk Lắk
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Ban Tiếp Công Dân Tỉnh Đắk Lắk
- Về Xây Dựng Nội Quy, Quy Chế Và Thông Báo Tiếp Công Dân
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Ở điều kiện trình độ dân trí cao, việc nhận thức và thực hiện pháp luật đảm bảo được những quy định do nhà nước đề ra, tuy nhiên với trình độ dân trí cao, con người nhận ra được những vấn đề còn thiếu sót của nhà nước và việc mong muốn được hưởng lợi ích, nhu cầu từ nhà nước cao hơn dẫn đến người dân có những hành động đòi hỏi nhà nước phải đáp ứng được lợi ích của mình.
Vì vậy, với điều kiện trình độ dân trí cao hay thấp đều ảnh hướng đến việc quản lý của nhà nước cũng như quá trình chấp hành pháp luật do nhà nước đề ra. Nhà nước cần nghiên cứu, khảo sát, đưa ra những văn bản, quy định mà cả người ở trình độ dân trí cao và dân trí thấp đều có thể thực hiện một cách tự nguyện và thực sự hài lòng về pháp luật mà nhà nước đề ra. Thêm vào đó, công tác quản lý chặt chẽ, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới người dân được thực hiện thường xuyên, có chất lượng thì rất dễ để hình thành ý thức bảo vệ và tôn trọng pháp luật của người dân.
1.3.1.3. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Thời gian vừa qua, cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi mọi mặt đời sống con người trên toàn thế giới và tác động không nhỏ tới Việt Nam. Nhờ công nghệ số, chúng ta đã có nhiều bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội cũng như hội nhập quốc tế. Do vậy Đảng ta xác định tập trung phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số.
Với sự phát triển khoa học công nghệ đã làm cho quy trình tiếp công dân trở nên nhanh gọn và đem lại hiệu quả thiết thực. Việc tiếp nhận, lưu trữ, xử lý thông tin, tìm kiếm, quản lý hồ sơ, đồng bộ dữ liệu, trả kết quả cho người dân, tuyên truyền về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn hiện nay không còn khó khăn. Thông qua việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn ISO TCVN 9001: 2015 đã kiểm soát hiệu quả tiến trình xử lý vụ việc và đảm bảo đúng thời gian quy định.
Hiện nay, hầu hết các địa phương đang đẩy mạnh việc sử dụng Cơ sở dữ liệu Quốc gia về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm khai thác, quản lý, sử dụng thông tin, dữ liệu về khiếu nại, tố cáo trên phạm vi toàn quốc. Các đơn vị cơ bản đánh giá việc sử dụng Hệ thống đảm bảo thực hiện tốt nội dung ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý KN, TC nhằm cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ theo hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong xử lý công việc giữa các cấp chính quyền; kịp thời theo dõi, nắm bắt thông tin liên quan đến KN, TC để chỉ đạo. Bên cạnh đó, bước đầu hỗ trợ cho cán bộ tiếp công dân cập nhật các thông tin về đơn thư KN, TC, hỗ trợ tham mưu, phân loại các đơn thư trùng lặp, xử lý các đơn theo đúng thẩm quyền, giảm thiểu thời gian xử lý, giải quyết. Đơn thư được tra cứu trên toàn quốc, tạo hồ sơ vụ việc điện tử duy nhất từ cấp xã/phường
đến Trung ương nên biết được người gửi đơn đã gửi đến những cơ quan nào và kết quả xử lý của các cơ quan, từ đó giúp loại bỏ các đơn trùng lặp gửi nhiều lần, nhiều cơ quan, đơn vị, tiết kiệm được thời gian trong công tác tra cứu, thu thập số liệu, theo dõi quá trình tiếp nhận, xử lý đơn thư, thuận lợi cho công tác tổng hợp, báo cáo. Tuy nhiên, Hệ thống Cơ sở dữ liệu còn có những hạn chế nhất định, việc cập nhật thông tin vụ việc có nội dung TC, quá trình giải quyết vụ việc KN, TC vào Hệ thống còn mâu thuẫn với quy định của pháp luật; Quản trị Hệ thống của đơn vị còn khó khăn khi chủ động phân quyền cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình được theo dõi thông tin liên quan đến toàn bộ quá trình xử lý, giải quyết vụ việc KN, TC tại đơn vị khi Thủ trưởng các đơn vị chưa ban hành danh mục các nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân theo chức trách, nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, Một số địa phương còn sử dụng thêm những phần mềm theo dõi kết quả thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ trưởng đơn vị và việc thực hiện nhiệm vụ công việc được lãnh đạo cơ quan phân công đối với các Phòng nghiệp vụ; phần mềm theo dõi việc thi hành các quyết định có hiệu lực pháp luật trong lĩnh vực đất đai; phần mềm quản lý kế toán hành chính sự nghiệp; phần mềm hỗ trợ kê khai thuế; phần mềm quản lý tài sản nhà nước,…
Để công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đạt hiệu quả cao so với giai đoạn trước đây cần đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin; khắc phục được những hạn chế của Hệ thống Cơ sở dữ liệu Quốc gia về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo để việc tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo để đạt được hiệu quả tốt nhất, xây dựng CSDL quốc gia về khiếu nại, tố cáo phải đạt các tiêu chí: đáp ứng mô hình nghiệp vụ theo pháp luật tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo; đáp ứng mô hình nghiệp vụ đặc thù riêng của từng đơn vị tiếp công dân từ Trung ương đến địa phương; phải chuyển đổi dữ liệu cho các đơn vị đang dùng phần mềm
khiếu nại, tố cáo; mỗi vụ việc phải tạo được thành một hồ sơ vụ việc điện tử và duy nhất; khử trùng đơn thư chồng chéo, trùng lắp, gửi lòng vòng; kết xuất được báo cáo theo quy định của pháp luật tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và các quy định của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ, ngành thanh tra và các cơ quan liên quan cần báo cáo; đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng hơn nữa trong quần chúng nhân dân về việc sử dụng công nghệ thông tin như nộp hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo trên cổng dịch vụ công…
1.3.1.4. Sự phát triển của kinh tế - xã hội
Việt Nam là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định; Nhà nước đã xây dựng được bộ máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại có sự chuyển biến tích cực; đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện. Đảng và Nhà nước ta đã phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả trong và ngoài nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, phục vụ nhân dân. Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bức phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương là yếu tố có ảnh hưởng chung đến hiệu quả hoạt động TCD. Bởi tình hình phát triển kinh tế - xã hội lại liên quan đến một loạt các yếu tố khác của hoạt động TCD như: cơ sở vật chất được đầu tư, trình độ dân trí, các vấn đề kinh tế - xã hội nãy sinh…Trong điều kiện hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, tất yếu đã tác động đến quyền lợi của nhiều tổ chức, cá nhân, nhất là quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, chuyển đổi mô hình chợ, điều chỉnh tổ chức và biên chế… Đây là những điều kiện trực tiếp nhất, tác động đến tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân.
Vì vậy, phải nâng cao nhận thức, quan điểm chỉ đạo để ngăn chặn các vụ việc khiếu nại tố cáo, nhất là các vụ khiếu nại, tố cáo vượt cấp, đề ra phương hướng, mục tiêu cụ thể để có thể đáp ứng tốt công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính quyền và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Nhận thức đúng vai trò quan trọng của công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, Nhà nước cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác này với nhiều nội dung rõ nét, sâu sát, phù hợp với tình hình.
1.3.2. Những yếu tố chủ quan
1.3.2.1. Điều kiện cơ sở vật chất
Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ TCD bao gồm trụ sở (phòng làm việc), cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và các điều kiện làm việc khác phục vụ TCD. Nơi TCD được trang bị máy tính, máy ghi âm, máy ảnh, camera và các điều kiện cần thiết khác phục vụ việc TCD. Như vậy, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ TCD ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động TCD. Điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ, đảm bảo cho công dân thuận tiện trong việc đi lại, tạo môi trường thuận tiện để công dân trình bày TC, KN, kiến nghị, phản ánh một cách thuận tiện và dễ dàng [4].
1.3.2.2. Năng lực của cán bộ, công chức
Hoạt động tiếp công dân là kênh thu thập thông tin hữu hiệu để xem xét lại tính phù hợp thực tiễn của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác quản lý của cơ quan, đơn vị, tổ chức; là công cụ thực hiện hóa quyền dân chủ của công dân, cụ thể là quyền khiếu nại, tố cáo; góp phần nâng cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng của công dân.
Qua hoạt động tiếp công dân, người dân phần nào nhìn nhận được trình độ, năng lực, thái độ, phẩm chất đạo đức của người cán bộ trực tiếp làm việc với mình. Bởi vì, đây là hoạt động tương tác trực tiếp nên họ dễ dàng đánh giá được thông qua lời nói, cử chỉ, hành động, nét mặt của người cán bộ. Lúc bấy giờ, người cán bộ tiếp công dân phải nhận thức rõ rằng mọi hành vi của mình sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của cơ quan, tổ chức, đơn vị, hình ảnh của người cán bộ nói chung, thậm chí là hình ảnh của cả hệ thống chính trị Việt Nam. Cho nên, bất cứ một sơ suất, nóng vội, thiếu kiềm chế nào của cán bộ tiếp công dân đều có thể dẫn đến sự đánh giá sai lệch của người dân với Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tiếp công dân phải phân công cán bộ tiếp công dân có trình độ, năng lực. Những cơ quan, tổ chức, đơn vị sắp xếp cán bộ tiếp công dân không có trình độ năng lực, những công chức du dôi, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, không giải tỏa được bức xúc cho người dân mà còn khiến người dân thêm ngao ngán, mất niềm tin và dễ phát sinh “điểm nóng” về an ninh, trật tự tại địa phương.
Cán bộ được phân công tiếp công dân trước hết phải là người am hiểu pháp luật tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân vì nội dung cốt lõi của hoạt động tiếp công dân là tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, phản ánh,
kiến nghị của công dân và hướng dẫn cho họ thực hiện những quyền đó theo đúng quy định pháp luật. Ngoài ra, cán bộ tiếp công dân còn cần phải am hiểu các ngành luật khác nhau một cách khái quát nhất vì những vấn đề mà người dân bức xúc rất phong phú, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, mỗi lĩnh vực ấy được điều chỉnh bởi một ngành luật riêng. Bên cạnh đó, cán bộ tiếp công dân phải có kiến thức xã hội toàn diện, sâu rộng, đặc biệt liên quan đến tình hình địa phương nơi mình đang công tác. Như vậy, người cán bộ sẽ chủ động điều chỉnh cách cư xử của mình sao cho phù hợp với từng đối tượng, từng vụ việc cụ thể với mục tiêu hàng đầu là xoa dịu bức xúc người dân xuống mức thấp nhất có thể. Điều đó không đồng nghĩa với việc cán bộ luôn ủng hộ mọi quan điểm của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và đưa ra những lời hứa suông mà phải thật tâm lắng nghe, từ tốn, nhẹ nhàng, lịch sự thuyết phục họ, phân tích cho họ hiểu vấn đề trên cơ sở tôn trọng Hiến pháp và pháp luật.
Phẩm chất đạo đức là một trong những yêu cầu quan trọng đối với người cán bộ tiếp công dân. Khi tiếp đón người dân, cán bộ luôn có thái độ tôn trọng, tận tụy phục vụ, có tâm trong sáng, đảm bảo khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của mình. Phải tự trang bị cho mình một số kỹ năng giao tiếp nhất định, điều chỉnh giọng điệu giao tiếp của mình sao cho người dân có thiện cảm, có lòng tin, từ đó, họ sẵn sàng chia sẻ mọi tâm tư, nguyện vọng, nỗi niềm của bản thân. Còn nếu giọng điệu gắt gỏng, âm lượng quá to, nặng nề tính mệnh lệnh quyền uy... thì mọi thông tin đúng đắn chúng ta mong muốn truyền đạt có thể bị hiểu sai lệch sang hướng tiêu cực nào đó. Phải sử dụng ngôn từ hành chính đúng chuẩn mực, phải nói chính xác, rõ ràng, không mập mờ, lơ lửng, phải sát với nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; không nên trình bày dài dòng,