bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng.
- Góp phần phân tích, đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ thời gian qua.
- Góp phần làm rõ một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Phú Thọ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 phần:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ
Có thể bạn quan tâm!
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Phú Thọ - 1
- Sự Cần Thiết Của Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Nông Nghiệp, Nông Thôn
- Nội Dung Của Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Nông Nghiệp, Nông
- Xây Dựng Kết Cấu Hạ Tầng Kỹ Thuật – Xã Hội Hiện Đại Ở Nông Thôn, Đưa Nông Thôn Phát Triển Ngày Càng Văn Minh, Hiện Đại
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960) của Đảng Lao động Việt Nam, công nghiệp hoá đã được khẳng định “là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ”. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức... đã làm thay đổi cả về khái niệm, nội dung và lôgic của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đây không phải chỉ là vấn đề thuần túy lý thuyết mà nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định con đường, bước đi và các giải pháp chiến lược trong việc thực hiện nhiệm vụ đầy khó khăn này.
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Một số học giả quan niệm rằng công nghiệp hóa đồng nghĩa với quá trình phát triển công nghiệp, là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động. Họ tách rời, thậm trí đối lập sự phát triển công nghiệp với nông nghiệp và một số ngành khác. Họ coi đối tượng của công nghiệp hóa chỉ là ngành công nghiệp, còn sự phát triển của nông nghiệp và các ngành khác dường như chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp. Công nghiệp hóa theo họ là làm cho công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết quả hoạt động của nền kinh tế, còn cơ cấu hay loại hình công nghiệp đó như thế nào thì không quan trọng. Tuy nhiên, quan niệm này không đề cập gì tới tính lịch sử của công nghiệp hóa, điều này dễ làm người ta hiểu là công nghiệp hóa sẽ kéo dài vô tận, đưa đến một sự nhầm lẫn, đồng nhất công nghiệp hóa với quá trình
phát triển công nghiệp, không làm rõ được mục tiêu và điểm dừng của công nghiệp hóa.
Một thời gian dài ở các nước xã hội chủ nghĩa có những sự giải thích khác nhau về phạm trù công nghiệp hóa. Song trên thực tế đều thống nhất với quan điểm của các nhà kinh tế Liên Xô trước đây. Họ coi công nghiệp hóa là quá trình biến một nước nông nghiệp thành nước công nghiệp, bằng cách phát triển công nghiệp nhanh hơn nông nghiệp và ưu tiên phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất; là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí, có khả năng cải tạo cả nông nghiệp, với trung tâm là ngành chế tạo máy, nhằm đảm bảo cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật cơ khí tiên tiến. Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn Liên Xô khi bắt tay vào công nghiệp hóa còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bị đế quốc bao vây, sự trợ giúp bên ngoài không có. Vì vậy, để bảo vệ đất nước, đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa, buộc Liên Xô phải dốc toàn lực tập trung phát triển công nghiệp nặng. Đường lối công nghiệp hóa của Liên Xô đã đạt được những thành tựu nhất định và từng được coi là kỳ tích của chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện kinh tế- xã hội lúc đó quan niệm này được coi là hợp lý.
Một số học giả khác lại cho rằng công nghiệp hóa là quá trình không chỉ phát triển một lĩnh vực công nghiệp chủ chốt nào đó hay toàn bộ nền công nghiệp thành lĩnh vực đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, mà còn biến tất cả các hoạt động sản xuất thành loại hình hoạt động công nghiệp. Như vậy, có thể nói công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt đầu từ khi xuất hiện mầm mống của công nghiệp và vẫn chưa kết thúc ngay cả ở những nước đã có nền kinh tế phát triển.
Cùng quan điểm đó Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO) đã coi công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng
cơ cấu kinh tế nhiều ngành, với công nghệ hiện đại, để chế tạo ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới tiến bộ kinh tế và tiến bộ xã hội. ở khía cạnh nào đó, quan niệm này tránh được một số khiếm khuyết như những quan điểm trước đã trình bày. Quan niệm này coi công nghiệp hóa là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt nhiều mục tiêu (cả kinh tế và xã hội) chứ không phải chỉ là mục tiêu kinh tế - kỹ thuật. Nó nhấn mạnh công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế, khẳng định xây dựng cơ cấu kinh tế đa ngành, nâng cao trình độ kỹ thuật áp dụng công nghệ hiện đại là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên, nó còn mang nặng tính dung hoà những ý kiến khác nhau, hơn nữa cũng chưa nêu lên được tính lịch sử cụ thể của quá trình công nghiệp hóa.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự liên kết kinh tế thế giới, rõ ràng công nghiệp hóa theo kiểu cổ điển không còn phù hợp nữa. Cách mạng khoa học - kỹ thuật bùng nổ đã làm thay đổi căn bản trình độ phát triển của các nước, khoảng cách chênh lệch giữa các nước phát triển và nước chậm phát triển ngày càng lớn. Ngay cả ở một số nước đi trước trong quá trình công nghiệp hóa, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ cũng trở nên lạc hậu. Dường như việc đạt tới trình độ phát triển hiện đại nhất ngày càng trở thành một thách thức khó vượt qua đối với quá trình công nghiệp hóa ở các nước đi sau, buộc các nước này phải nghĩ đến những chiến lược phát triển gồm nhiều giai đoạn, mà một trong những nhiệm vụ của giai đoạn sau là hiện đại hóa những gì mà giai đoạn trước đã đạt được. Vì vậy, sự xâm nhập, đan kết của công nghiệp hóa - hiện đại hóa là không thể tránh khỏi và đó cũng là cơ hội để các nước lạc hậu có thể bắt kịp các nước phát triển trên thế giới. Do vậy, cả hai quan điểm đồng nhất hóa hay cô lập hóa hai quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đều không có chỗ đứng trong thực tế. Công nghiệp hóa trong điều kiện hiện nay phải bao hàm cả ý nghĩa hiện đại hoá, mục tiêu của công nghiệp hóa là tiến tới hiện đại hóa, song bản thân hiện đại hóa với nội dung rộng hơn đã xâm nhập vào quá trình công nghiệp hóa. Mặt khác, cũng phải thấy rằng công nghiệp hóa tự bản thân nó không thể bao chứa hết nội dung của hiện đại hóa. Nhiều lĩnh vực của phạm trù hiện đại hóa về bản chất khác hoàn toàn với mục tiêu của công nghiệp hóa như: Công nghệ trí tuệ, công nghệ sinh học, sự phát triển đa dạng của truyền thống văn hoá...
ở Việt Nam, ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (năm 1960) đã xác định, thực chất của công nghiệp hoá “là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng”. Quan niệm này đã thể hiện rõ nội dung toàn diện, mục tiêu và tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá và nó được xem là quan niệm chính thống về công nghiệp hoá ở nước ta thời gian đó.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng các lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã chỉ rõ công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình, mà là một quá trình thống nhất, tuy có phần trùng khớp, nhưng về cơ bản vẫn là hai quá trình tách biệt và nối tiếp nhau. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng (năm 1994) đã chỉ rõ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Coi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Theo đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp, mà còn phải thực sự chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng sử dụng công nghệ tiến bộ. Không chỉ thực hiện một cách tuần tự qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn phải kết hợp đồng thời các thành tựu trên nhiều lĩnh vực; Phải biết tận dụng, hiện đại hoá các công nghệ truyền thống và áp dụng những công nghệ, kỹ thuật hiện đại; Phát triển có chọn lọc, có mũi nhọn để thực hiện đi tắt đón đầu.
Bước sang thế kỷ 21, Đảng ta nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước phát tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”[13]. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển của nền kinh tế tri thức trên thế giới đã, đang và sẽ làm thay đổi mạnh mẽ logic của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự kết hợp hai xu hướng này đòi hỏi quá trình các nước đi sau như Việt Nam phải đồng thời thực hiện hai quá trình, đó là: vừa xây dựng nền đại công nghiệp, vừa từng bước tiếp cận đến nền kinh tế tri thức trong khuôn cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đây là hai nội dung của một quá trình duy nhất, diễn ra đồng thời và phải được thực hiện đồng thời. Trong giai đoạn này công nghiệp hoá không chỉ gắn với các mục tiêu, giải pháp truyền thống, mà còn phải có mục đích và giải pháp hiện đại. Những quan điểm này ngày càng chi phối và định hướng tư duy chiến lược về cơ cấu kinh tế, về xây dựng hệ thống thể chế, đặc biệt là môi trường pháp lý, chính sách phù hợp với luật chơi toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng có bước đổi mới và
phát triển quan trọng khi cho rằng: “Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”. Nói cách khác, đối với nước ta hiện nay không nên và không thể dừng lại ở quan niệm công nghiệp hoá truyền thống hay thậm chí quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung, mà phải thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn. Ngoài ra, cần phải bổ sung một số nội dung mới vào quan niệm công nghiệp hoá truyền thống, như phải thực hiện các yêu cầu của quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Nội dung này bao hàm không chỉ các mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh (như cải tiến kỹ thuật, giảm chi phí, đa dạng hoá sản phẩm...), mà quan trọng không kém là các quá trình thể chế liên quan đến xu hướng tự do hoá, phân công lao động quốc tế và liên kết kinh tế toàn cầu.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tư cách một quá trình bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau là một kết cấu động và rất phức tạp. Việc đưa ra một định nghĩa ngắn gọn bao chứa được đầy đủ nội dung, đặc trưng của nó không phải là đơn giản, dễ dàng. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần bao quát được những điểm cơ bản sau:
Công nghiệp hoá là một tất yếu lịch sử mà Việt Nam phải trải qua. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, đi đôi với đổi mới công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, làm cơ sở cho sự tăng trưởng vững chắc và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là: Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững mạnh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trang bị và tái trang bị công nghệ ngày càng hiện đại cho tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành mũi nhọn, có lợi thế và tạo được sức bật lớn để thúc đẩy các ngành khác phát triển, trên cơ sở cải tiến và hiện đại hóa dần các công nghệ truyền thống, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Từ sự phân tính trên có thể rút ra nhận định khái quát: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình lịch sử tất yếu mà Việt Nam phải trải qua, nhằm cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, trang bị và tái trang bị công nghệ ngày càng hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, chuyển từ lao động thủ công, lạc hậu, sang lao động sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng trí tuệ cao, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống, giữ vững an ninh quốc phòng một cách vững chắc và có hiệu quả nhất.
Để thực hiện tốt mục tiêu và nội dung cơ bản trên của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cần phải có những điều kiện, bước đi và giải pháp thích ứng trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nêu trên là cơ sở để xây dựng quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với nội dung chủ yếu là cải biến khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn cổ truyền theo định hướng kinh tế công nghiệp - thị trường hiện đại.
Trước đây, có quan niệm cho rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là việc đưa công nghiệp vào nông thôn, đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp mang tính công nghiệp. Quan niệm khác lại cho rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình đô thị hoá nông