(ii) Có sự kết hợp nhân tố con người và máy móc trong môi trường làm việc có tính chuyên môn hóa cao và trình độ nhất định. (iii) Tính liên kết ngành rất cao, rất đa dạng với công nghệ cao phục vụ lượng lớn các ngành lắp ráp. (iv) Thể hiện quy luật liên kết, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sản xuất, giữa tính độc lập và tính phụ thuộc trong quá trình sản xuất sản phẩm, giữa công nghiệp chính và CNHT, giữa công ty mẹ và công ty con, giữa người nhận vốn và người đầu tư vốn... (v) Gồm những sản phẩm trung gian, gắn liền và phụ thuộc với sản phẩm công nghiệp chính.
2.1.2. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ
2.1.2.1. Về tính đa cấp và liên kết
Trong quá trình sản xuất công nghiệp luôn có sự đan xen, tác động lẫn nhau; sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất của ngành này lại là sản phẩm hỗ trợ hay sản phẩm đầu vào, quá trình sản xuất cho ngành khác. Thậm chí, để sản xuất ra sản phẩm hỗ trợ cũng phải cần tới CNHT cho bản thân nó. Xét trong mối quan hệ nhất định, sự đan xen, tác động lẫn nhau như thế sẽ tiếp tục cho đến khi có được sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh cuối cùng. Một sản phẩm hoàn chỉnh có thể được sản xuất ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên nhiều địa bàn, khu vực, địa lý khác nhau. Do các sản phẩm của CNHT nằm ở các vị trí khác nhau trong chuỗi giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng nên vị trí các nhà cung cấp cũng được phân loại theo cấp độ, hệ thống; tính đa cấp của CNHT kéo theo sự phân chia khá rõ ràng trong các thành phần tham gia CNHT và xuất hiện nhà cung cấp lớp I, lớp II, lớp III..., trên cùng là nhà lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Nhà lắp ráp có thể có nhiều đối tượng hợp tác chuyên sản xuất cung ứng các sản phẩm hỗ trợ, dẫn đến các nhà cung cấp ở các cấp hay vị trí khác nhau sẽ có đặc điểm, vai trò, quy mô vốn, công nghệ và tính chất hỗ trợ khác nhau. (Sơ đồ 2.3).[112]
Nhóm đối tượng lớp I, là các cơ sở sản xuất tin cẩn nhất, được đầu tư vốn và chỉ chuyên sản xuất các sản phẩm riêng của chính hãng thiết kế, đặt hàng, thường gọi là phụ trợ “ruột”; phần lớn là loại hình tập đoàn công nghiệp, thành
lập và phát triển cho mình một mạng lưới các nhà cung ứng dưới hình thức công ty mẹ - con, thực hiện sản xuất linh kiện phụ tùng quan trọng, hàm chứa các bí quyết công nghệ theo yêu cầu của công ty lắp ráp trong tập đoàn.[114].
Nhóm đối tượng lớp thứ 2, thường là các DNNVV độc lập, chuyên cung cấp các chi tiết, linh kiện quan trọng cho các nhà cung ứng ở đối tượng thứ nhất, hoặc cung ứng thẳng cho các nhà lắp ráp theo một hợp đồng tương đối thường xuyên, đây là liên kết khá gắn bó và được đảm bảo bằng thời gian hợp tác, uy tín, quyền lợi cho cả hai bên. [140].
Nhóm đối tượng lớp thứ 3, là các cơ sở sản xuất các sản phẩm hỗ trợ hàng loạt, mua sẵn, quan hệ với nhà lắp ráp theo kiểu mua bán thông thường; chủ yếu là các chi tiết đơn giản, rẻ tiền, có giá trị gia tăng thấp với hàm lượng nguyên vật liệu trong sản phẩm cao, thường được các công ty lắp ráp đa quốc gia đặt hàng ngay tại quốc gia sở tại mà họ lắp ráp hoặc tiêu thụ sản phẩm cuối cùng [92].
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Công Trình Khoa Học Nghiên Cứu Về Công Nghiệp Hỗ Trợ
- Nhóm Công Trình Khoa Học Nghiên Cứu Về Giải Pháp Phát Triển
- Đánh Giá Chung Và Những Vấn Đề Đặt Ra Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Tiến Bộ Khoa Học Công Nghệ Và Năng Lực Nội Địa Hóa
- Vai Trò Có Tính Hai Mặt Của Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ
- Kinh Nghiệm Của Một Số Quốc Gia Về Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ Trong Một Số Ngành Công Nghiệp Và Bài Học Cho Việt Nam
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
Sơ đồ 2.3: Các lớp cung ứng hỗ trợ
Nguồn: [124]
Các nhà lắp ráp có tới 3 - 4 lớp doanh nghiệp cung ứng hỗ trợ hoặc nhiều tầng cấp hỗ trợ hơn nữa. Điều đó phụ thuộc vào đặc thù ngành công nghiệp, thị trường tiêu thụ, chuỗi giá trị sản xuất, cung ứng ra sản phẩm, hoặc đặc điểm về quốc tịch của doanh nghiệp lắp ráp [55, tr 113-136]. Trong hệ thống đa cấp của CNHT, các nhóm cung ứng, hỗ trợ ở các lớp I, II, III… luôn phụ thuộc và tạo tiền đề cho nhau phát triển hướng đến phục vụ ngành lắp ráp. Từ đó xuất hiện phổ biến trong các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu phụ/vệ tinh, liên doanh, liên kết trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chính và các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ. Chính mối liên kết này khiến cho các ngành công nghiệp nội địa cũng như ngành công nghiệp trong và ngoài nước gắn bó chặt chẽ với nhau trong chuỗi giá trị, chuỗi phân công lao động không thể tách rời dựa trên mối quan hệ lợi ích và hiệu quả kinh tế.
Sơ đồ 2.3 mô tả các lớp cung ứng của một TĐĐQG A, đồng thời cũng thể hiện tính liên kết của các loại hình doanh nghiệp trong quá trình tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Trong Sơ đồ, các nhà cung cấp lớp I, lớp II, và lớp III… cung ứng lần lượt theo các lớp cho doanh nghiệp lắp ráp, song vẫn cung ứng cho cả các đơn vị khác, chứ không chỉ cung ứng cho một đơn vị là TĐĐQG A. Điều này khẳng định trong chuỗi cung ứng sẽ kết nối nhiều loại hình công ty, doanh nghiệp lại với nhau, từ nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ đến nhà cung ứng và khách hàng, quy trình liên kết cũng được mở rộng ở các công đoạn từ khâu cung cấp nguyên vật liệu thô chưa qua xử lý đến khâu lắp ráp để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Hàng loạt các doanh nghiệp, các nhà cung ứng và khách hàng được kết nối với nhau ở cả trong và ngoài hệ thống. Trong đó, mỗi đơn vị tham gia ở các lớp khác nhau, đến lượt mình lại là nhà cung ứng cho đơn vị ở lớp tiếp theo, cho đến khi thành phẩm tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Điều đó tạo nên tính liên kết, hệ thống chặt chẽ trong toàn bộ các khu, cụm công nghiệp, giúp ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung phát triển hiệu quả.
2.1.2.2. Về công nghệ
Để có một sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh trước khi đưa ra thị trường, trong quá trình sản xuất luôn đòi hỏi sự đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ. Như trên đã phân tích, trong mỗi lớp cung ứng I, II, III… các sản phẩm hỗ trợ đều đòi hỏi mức độ, trình độ công nghệ khác nhau, liên quan nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau, từ những sản phẩm có mức độ công nghệ cao, phức tạp cho tới những sản phẩm gia công cơ khí... Thường những bộ phận tinh xảo, có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ rất cao sẽ do những nhà cung cấp lớn có trình độ công nghệ cao đảm nhận. Những chi tiết cấp thấp hơn, kỹ thuật sản xuất không quá khó thì do những nhà cung cấp cấp thấp có trình độ công nghệ thấp hơn cung cấp.
2.1.2.3. Về thị trường
Thị trường CNHT ngày càng mở rộng, dung lượng thị trường không chỉ đáp ứng trong nội bộ ngành mà còn đáp ứng nhu cầu liên ngành, đa ngành và không giới hạn không gian địa lý, quan trọng là các sản phẩm có mối liên kết và nằm trong chuỗi giá trị với độ tinh xảo, chuyên môn hóa cao, có khả năng cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của các nhà lắp ráp. Đối với các nước có ngành CNHT phát triển, sau khi đảm bảo cung cấp sản phẩm cho công nghiệp trong nước có thể xuất khẩu sang các nước khác. Điều này lý giải xu hướng các nhà lắp ráp thường chuyển dịch từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, từ các nước kinh tế mới nổi, các quốc gia công nghiệp trẻ sang các quốc gia công nghiệp hoá sau. Tuy nhiên, người tiêu dùng cuối cùng của các ngành CNHT là các nhà lắp ráp sản phẩm công nghiệp, do vậy, thị trường của CNHT không rộng như sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cuối cùng. Dung lượng thị trường sẽ thu hẹp hơn, thậm chí có những sản phẩm phục vụ thị trường rất hẹp, chỉ dành cho một hoặc một số khách hàng nhất định. Dù không trực diện với thị trường hàng hóa cuối cùng nhưng sản phẩm CNHT có thể linh hoạt thay đổi phục vụ chi tiết, linh kiện cho nhiều hãng lắp ráp khác nhau, đồng thời sản xuất CNHT cũng sẽ trở nên hấp dẫn và ổn định hơn nếu doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm CNHT tìm và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng dài hạn hoặc tìm được “thị trường chuyên biệt” hay “thị trường đặc thù” cho chính mình.
2.1.2.4. Về nguồn nhân lực
CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao. Lao động trong ngành CNHT phần lớn là các nhà vận hành máy móc, những kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm, các kỹ thuật viên và các kỹ sư có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, được đào tạo theo tiểu chuẩn, trình độ lành nghề, chuyên môn sâu. Ngành CNHT ở các nước đang phát triển có xu hướng kém tính cạnh tranh hơn do không có khả năng tài chính và lao động trình độ cao để tận dụng và vận hành tốt các thiết bị. Các chuyên gia Nhật Bản cho biết, nếu đơn thuần dựa vào máy móc dây chuyền thì không tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì các quốc gia đều có thể sở hữu chúng [141]. Do vậy, điểm làm nên điều khác biệt chính là đội ngũ nhân công có tay nghề cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành, cải tiến máy móc, phát minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc. Sự thành công của các doanh nghiệp trong ngành CNHT phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ kỹ sư và chuyên gia.
2.1.2.5. Về đối tượng tham gia
Với đặc thù sản xuất ra các linh phụ kiện phục vụ nhiều ngành công nghiệp lắp ráp dựa trên cơ sở phân công lao động, đã thu hút số lượng lớn doanh nghiệp với quy mô khác nhau tham gia; trong đó doanh nghiệp lớn thuộc nhóm đối tượng lớp I, các lớp khác chủ yếu là DNNVV. Do tính chất đa cấp và phát triển theo hình tháp, việc đòi hỏi số lượng doanh nghiệp ở cấp thấp rất lớn, đa phần doanh nghiệp ở cấp này là DNNVV. Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng và là tiền đề cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế nói chung, hệ thống sản xuất của các công ty đa quốc gia nói riêng để tiếp nhận công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đem lại giá trị gia tăng cao. Phát triển CNHT không chỉ là phương thức tối ưu thu hút đầu tư nước ngoài mà còn là cơ sở tạo lập nền công nghiệp trong nước phát triển bền vững với một hệ thống các doanh nghiệp tham gia.
2.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới công nghiệp hỗ trợ
2.1.3.1. Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách của Nhà nước
Môi trường kinh tế vĩ mô của một quốc gia (tốc độ tăng trưởng, sự ổn định của nền kinh tế, giá cả, tiền tệ, lạm phát, tỷ giá hối đoái..), tác động rất lớn đến hoạt động của ngành công nghiệp nói chung và ngành CNHT nói riêng. Nó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp, nhất là doanh nghiệp CNHT. Những biến động của các yếu tố kinh tế có thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức với doanh nghiệp. Các yếu tố từ Chính phủ, hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng... ngày càng ảnh hưởng lớn đến phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp CNHT. Sự ổn định về chính trị, nhất quán về quan điểm, chính sách lớn luôn là sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Trong xu thế toàn cầu hiện nay, mối liên hệ giữa chính trị và kinh doanh không chỉ diễn ra trên bình diện quốc gia mà còn thể hiện trong các quan hệ quốc tế. Để đưa ra được những quyết định hợp lý trong quản trị doanh nghiệp, cần phải phân tích, dự báo sự thay đổi của môi trường trong từng giai đoạn phát triển.
Chính sách phát triển các ngành công nghiệp trung, dài hạn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển CNHT. Chính sách miễn giảm thuế thu nhập, giảm thuế mua sắm thiết bị, máy móc có tác động khuyến khích các doanh nghiệp CNHT phát triển, đây là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến quyết định của các nhà đầu tư trong nước cũng như quốc tế đầu tư vào CNHT. CNHT với tư cách là lĩnh vực sản xuất trung gian, cung ứng sản phẩm cho các ngành công nghiệp hạ nguồn, luôn đứng trước áp lực phải đáp ứng các tiêu chuẩn của các nhà sản xuất, lắp rắp cuối cùng. Việc ban hành các quy chuẩn phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế của Chính phủ là việc nâng cao năng lực đáp ứng của các doanh nghiệp thông qua việc tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hạn chế sản phẩm kém chất lượng, hạn chế nhập khẩu, tăng trách nhiệm của các nhà sản xuất với cộng đồng. Để CNHT phát triển nhanh, cần có mối liên kết chặt chẽ và thông
suốt giữa các doanh nghiệp tham gia ngành CNHT với các doanh nghiệp lắp ráp, Nhà nước phải có cơ chế, có cơ quan tham mưu làm đầu mối trung gian, để liên kết doanh nghiệp lắp ráp với doanh nghiệp CNHT.
2.1.3.2. Các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các
tập đoàn đa quốc gia
Quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và các ngành sản xuất công nghiệp không thể chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia, mà cần được thực hiện trong phạm vi khu vực và toàn cầu. Xu hướng liên kết, hợp tác trong sản xuất cũng như phân công lao động quốc tế đang trở thành xu thế chủ đạo trên thế giới. Với nguồn lực to lớn về tài chính, các tập đoàn đa quốc gia có mạng lưới sản xuất và phân phối rộng với chiến lược phát triển thống nhất. Các bộ phận trong mạng lưới được chuyên môn hoá hợp lý, khai thác lợi thế ở mỗi quốc gia và mỗi khu vực, với những chi nhánh chuyên sản xuất một số loại chi tiết, bộ phận nhất định cung cấp cho các chi nhánh khác ở phạm vi khu vực, thậm chí toàn cầu.
Việc hoạch định chiến lược phát triển các ngành CNHT, cần có các chính sách thu hút FDI và kết hợp hợp lý giữa sản xuất trong nước với các chi nhánh của các tập đoàn xuyên quốc gia ấy. Các tập đoàn đa quốc gia tùy thuộc vào lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia để quyết định việc sản xuất CNHT và cung ứng từ các quốc gia khác nhau cho mạng lưới sản xuất toàn cầu của họ. Điều này liên quan mật thiết đến các doanh nghiệp cung ứng ở các lớp I, lớp II và các doanh nghiệp ở lớp dưới trong mạng lưới. Thị trường toàn cầu của các ngành CNHT được mở rộng, cung ứng linh kiện phụ tùng và sản phẩm CNHT trong các lĩnh vực liên quan do các tập đoàn đa quốc gia kiểm soát. Vai trò của các tập đoàn đa quốc gia trong đầu tư sản xuất các sản phẩm CNHT ở các quốc gia hết sức quan trọng.
2.1.3.3. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc phát triển CNHT một
cách bài bản, góp phần thúc kinh tế phát triển là vấn đề tiên quyết đối với các
quốc gia. Đây là một xu thế tất yếu của thế giới, bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước. Các doanh nghiệp khi sản xuất các linh kiện, phụ tùng không chỉ dựa vào nhu cầu của những nhà lắp ráp nội địa, mà cần chủ động, nắm bắt nhu cầu của các công ty lắp ráp nước ngoài, tham gia vào MLSX của các công ty đó. Ngày nay, không một doanh nghiệp lớn mạnh nào trên thế giới thực hiện quy trình sản xuất khép kín theo mô hình tích hợp chiều dọc, từ sử dụng nguyên vật liệu sơ chế để sản xuất kinh kiện, phụ tùng cho đến khâu lắp ráp, mà phải thực hiện tại các vệ tinh, chi nhánh khác nhau trong cùng mạng lưới hoặc mua từ các doanh nghiệp hỗ trợ khác ngoài mạng lưới. Ví dụ, sản xuất máy bay Boeing và xe ô tô Ford là những trường hợp điển hình.
Từ trên có thể thấy, tác động của hội nhập quốc tế đối với CNHT của các quốc gia là: mở rộng thị trường, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư sản xuất, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của sản phẩm CNHT; nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền KH - CN quốc gia thông qua FDI và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến; đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng với giá cạnh tranh …và được tiếp cận, giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài.
2.1.3.4. Các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn
Khi phát triển CNHT, các ngành công nghiệp cơ bản của quốc gia cần được phát triển theo hướng bền vững. Các quốc gia công nghiệp hóa đi trước đánh giá cao điều này. Một quốc gia, có các ngành công nghiệp cơ bản, có tiềm năng phát triển công nghệ như dập, rèn, gia công chính xác, cơ khí chế tạo máy, thiết bị điện tử, cơ điện tử... sẽ cung ứng được linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu tại chỗ, đáp ứng được yêu cầu sản xuất trong nước, thu hút đầu tư của các nhà chế tạo và các quốc gia công nghiệp. Đồng thời, thúc đẩy các ngành khác phát triển, đặc biệt là các ngành CNHT phát triển về quy mô, công nghệ, chất lượng sản phẩm, giảm nhập siêu ... phục vụ nhu cầu CNH, HĐH đất nước.