cũng như những quy định về tỷ lệ nội địa hoá và các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ có hiệu quả từ phía Chính phủ dành cho quá trình liên kết doanh nghiệp, tất cả các chính sách này được coi như là điều kiện tiên quyết để phát triển CNHT ở các nước Châu Á. [125]
1.1.1.4. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ
với phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung
- Peter Larkin, the President and CEO of the National Grocers Association (NGA), (2011), “Comprehensive Supporting Industries” ThaiLand Board of Investment North America”, Supporting industries in Thailand. Khẳng định ngành CNHT phát triển toàn diện của Thái Lan cho phép các nhà đầu tư, các nhà sản xuất, lắp ráp giảm thời gian, giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất thông qua việc tìm nguồn cung ứng đầu vào ngay tại Thái Lan. Bài viết khẳng định một ngành CNHT sôi động, hoạt động hiệu quả đã thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng ổn định, lâu dài và bền vững. Đây cũng chính là yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh nhằm thu hút FDI của Thái Lan so với các nước. Chính vì thế, từ lâu Thái Lan đã được coi là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của các nhà đầu tư trên thế giới.[146]
- Goodwill Consultant JSC và diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), (2011), “Survey on comparision of backgrounds, polycy measuares and outcomes for development of supporting industries in ASEAN (Malaysia and Thailand in comparion with VietNam)” (Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp, chính sách và kết quả phát triển CNHT ở ASEAN), Publishing House of Communication and Transport, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải. Trong tài liệu này, các tác giả đi sâu vào phân tích Malaysia và Thái Lan, là hai trong số các nước ở ASEAN đã có rất nhiều chương trình dành cho CNHT từ những năm 1980. Thông qua việc phân tích các vấn đề về: bối cảnh; tổ chức chính sách và các bên liên quan; định nghĩa và phạm vi của CNHT; các biện pháp chính sách; ảnh hưởng chính sách và kết quả đạt được... các tác giả đưa ra những so sánh với Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng CNHT Việt Nam, những thành tựu và bất cập về khung
chính sách. Từ đó, đưa ra 07 phát hiện chính từ kết quả so sánh, đó là: khủng hoảng - chất xúc tác cho chính sách; tác động qua lại giữa lợi ích quốc gia và lợi ích nước ngoài thời kỳ toàn cầu hóa; xúc tiến mở và xúc tiến bắt buộc; áp dụng có điều chỉnh; sự quan tâm đến xúc tiến CNHT; các biện pháp chính sách và việc tổ chức thực hiện. Từ những phân tích đó, các tác giả chỉ ra nét tương đồng và sự khác biệt rất lớn về chính sách của hai quốc gia này, song dù bằng cách nào, mỗi quốc gia đều thiết lập cho mình một phương thức hoạch định chính sách công nghiệp tiên tiến và Việt Nam có thể học hỏi một cách có chọn lọc từ những kinh nghiệm khác nhau nhưng vô cùng sâu sắc của hai quốc gia này.[130]
- Thomas Brandt, (2012), “Industries in Malaysia Engineering Supporting Industry”, (CNHT cơ khí tại Malaysia), Malaysian Investment Development Authority (MIDA). Bài viết đã phân tích thực trạng ngành CNHT cơ khí tại Malaysia, trên các tiêu chí về khuôn mẫu và khuôn chết, gia công, công nghiệp chế tạo máy, công nghiệp cán kim loại, công nghiệp đúc, công nghiệp xử lý nhiệt, công nghiệp xử lý bề mặt…, từ đó khẳng định máy móc đã phát triển nhanh chóng trong vòng 3 thập kỷ qua song song với sự phát triển tổng thể của ngành công nghiệp sản xuất quốc gia. Malaysia đã được quốc tế công nhận về khả năng và chất lượng sản xuất trong rất nhiều lĩnh vực của ngành cơ khí. Từ đó đưa ra kết luận về sự đóng góp vô cùng to lớn của ngành CNHT cơ khí cho quá trình phát triển ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Do đó, để phát CNHT cơ khí đòi hỏi phải duy trì lợi thế cạnh tranh thông qua kỹ năng học tập tiên tiến, chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm bao trùm những hoạt động phức tạp này, bằng cách: Giảm tổng chi phí; giảm thời gian đưa ra thị trường; theo dõi và quản lý các sản phẩm phức tạp và giới thiệu hiệu quả hơn các sản phẩm mới; quản lý hoạt động toàn cầu; dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách hàng và nhà cung cấp nhanh chóng; thiết lập trung tâm dịch vụ giá trị cao có khả năng phát triển với sự tăng trưởng của doanh nghiệp.[150]
Có thể bạn quan tâm!
- Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan - 1
- Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan - 2
- Nhóm Công Trình Khoa Học Nghiên Cứu Về Giải Pháp Phát Triển
- Đánh Giá Chung Và Những Vấn Đề Đặt Ra Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Những Nhân Tố Chủ Yếu Ảnh Hưởng Tới Công Nghiệp Hỗ Trợ
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
1.1.2. Một số công trình khoa học nghiên cứu trong nước
Hiện nay, ở Việt Nam CNHT là vấn đề mới, là chủ đề có tính thời sự cao, bước đầu cũng đã có một số công trình nghiên cứu về CNHT dưới nhiều khía cạnh, góc độ, phạm vi khác nhau được nghiên cứu và trình bày trong rất nhiều đề tài, chuyên đề, bài báo, hội thảo... của các tác giả Việt Nam và các tác giả người nước ngoài viết về CNHT ở Việt Nam. Tác giả đã sưu tầm, tham khảo cụ thể ở một số nhóm vấn đề sau:
1.1.2.1. Nhóm công trình khoa học lý luận chung về công nghiệp hỗ trợ
và vai trò của công nghiệp hỗ trợ
- Kyoshiro Ichikawa, Tư vấn đầu tư cao cấp, Cục Xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản tại Hà Nội (JETRO), (2004), “Xây dựng và tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam”. Báo cáo này được coi là tài liệu đầu tiên đánh giá về thực trạng ngành CNPT ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định CNPT ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành. Mặc dù CNPT có vai trò rất quan trọng nhưng nhận thức của các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp về CNPT còn rất thấp và chưa đầy đủ, các doanh nghiệp tư nhân và khối doanh nghiệp FDI đang vươn lên và khá chủ động trong việc nắm bắt các cơ hội để thúc đẩy CNPT phát triển đóng góp vào thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định, bền vững.[138]
- GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda Nhật Bản, (2005), “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam” và “Công nghiệp phụ trợ mũi đột phá chiến lược”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Tác giả đã phân tích con đường phát triển công nghiệp ở Việt Nam theo hướng toàn cầu hoá, thông qua phát triển CNPT như là lĩnh vực của hệ thống DNNVV; đồng thời, chỉ rõ vai trò quan trọng của phát triển CNPT ở Việt Nam hiện nay. Coi CNPT như là một mũi đột phá chiến lược để trong thời gian ngắn khắc phục các mặt yếu cơ bản của công nghiệp Việt Nam và Việt Nam cần tập trung tất cả các năng lực về chính sách cho mũi đột phá chiến lược đó.[75]
- PGS, TS. Phan Đăng Tuất, (2005), “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản - Con đường nào cho Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp, ký 1, tháng 12. Thông qua bài viết, tác giả đã khẳng định những vai trò quan trọng của CNHT đối với nền kinh tế, đồng thời chỉ ra những yêu cầu về phát triển DNNVV, trên cơ sở đó phân tích con đường phát triển CNHT của Việt Nam cần thúc đẩy quan hệ hợp tác với Nhật Bản thông qua việc trở thành vệ tinh hay nhà cung cấp các sản phẩm đầu vào phục vụ cho ngành lắp ráp Nhật Bản thúc đẩy CNHT ở Việt Nam phát triển. Từ sự phân tích, tác giả khẳng định, đối với Việt Nam cần quan tâm đầu tư cho CNHT phát triển ngay, nếu không “muốn quá muộn”. Tác giả đã đưa ra 10 đề xuất, gợi ý cho quá trình phát triển CNHT ở Việt Nam. [92]
- Nguyễn Đức Hải, (2005), “Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Thông tin số 6: Những vấn đề kinh tế - chính trị học, Viện Kinh tế chính trị học, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Bài viết đã chỉ rõ vai trò và tầm quan trọng của vấn đề phát triển CNPT ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra một số gợi ý cho phát triển CNPT ở Việt Nam.[38]
- Lê Thị Thanh Huyền, (2006), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, Tạp chí Tài chính số 3 (tháng 3). Trong bài viết, tác giả nêu rõ vai trò của CNHT, đánh giá khái quát hiện trạng CNHT của các ngành lắp ráp, đúc nhựa và ngành dệt may. Trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT, trong đó nhấn mạnh giải pháp về vốn cho phát triển CNHT.[39]
- PGS, TS Nguyễn Văn Thanh, (2006), “Xây dựng Khu công nghiệp và khu chế xuất theo hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 12. Tác giả đã phân tích diễn biến của dòng FDI trên thế giới và chỉ ra những cơ hội cho Việt Nam trong quá trình phát triển. Tác giả đã phân tích sự cần thiết và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngành CNHT. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp thúc đẩy các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển tạo điều kiện phục vụ cho CNHT phát triển.[68]
- Diễn đàn phát triển Việt Nam - VDF, (2007), “Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam”, GS. Kenichi Ohno chủ biên, Nhà xuất bản Lao động Xã hội. Cuốn sách đã đưa ra kết quả khảo sát về thực trạng các ngành CNHT; trong Chương 1 “Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản”, với 11 nội dung đánh giá tổng quan về thực trạng và vấn đề phát triển CNHT hiện nay ở Việt Nam; Chương 2 “Công nghiệp hỗ trợ: Tổng quan về khái niệm và sự phát triển”, đã tổng kết lịch sử ra đời và năm khái niệm liên quan đến CNHT và đề xuất khái niệm cho Việt Nam. Đặc biệt trong Chương IV: “Thiết kế và quản lý cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ”, tác giả Junichi Mori đã đề xuất việc xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT, tác giả đã đưa ra những nguyên nhân đòi hỏi cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu trong quá trình phát triển CNHT và chỉ ra những yêu cầu, đặc điểm của cơ sở dữ liệu. Thông qua đó, tác giả chứng minh việc xây dựng cơ sở dữ liệu là yêu cầu cấp bách, là “dầu bôi trơn” cần thiết trong chiến lược phát triển CNHT do FDI dẫn dắt và mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước.[27]
- PGS, TS Vũ Chí Lộc, (2010), “Vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ tại các quốc gia đang phát triển”, Tạp chí Thương Mại (số 19). Tác giả đã phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển các ngành CNHT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Theo tác giả, chính các công ty xuyên quốc gia sẽ là “diễn viên” chính trong “vở kịch”: “Chuyên môn hóa sản xuất quốc tế”, còn CNHT chỉ là “diễn viên quần chúng” nhưng không thể thiếu được trong nền kinh tế toàn cầu. Thông qua bài viết, tác giả muốn khẳng định vai trò không ngừng tăng lên của ngành CNHT Việt Nam trong quá trình phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. [47]
- Trương Đình Tuyển - nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, (2011), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ. Kiến nghị cách tiếp cận và chính sách cho Việt Nam”.
Bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Chính sách tài chính phát triển công nghiệp hỗ trợ” do Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) và Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương) tổ chức. Bài viết đã phân tích và làm rõ khái niệm CNHT và vị trí của CNHT trong chuỗi giá trị, từ đó chỉ ra việc lựa chọn sản phẩm CNHT cho Việt Nam. Đặc biệt, trong giải pháp tổ chức sản xuất các sản phẩm CNHT và những ưu đãi cho CNHT, tác giả đưa ra mô hình tổ chức sản phẩm CNHT theo sơ đồ hình thang với bốn giai đoạn, thông qua đó chỉ ra Việt Nam mới ở giai đoạn III và IV, sản xuất phần lớn những sản phẩm chi tiết có độ phức tạp không cao. Do đó, Việt Nam cần tạo mọi điều kiện cho CNHT phát triển lên đỉnh hình thang thông qua việc làm trước mắt là xây dựng và ban hành Nghị định, Luật về CNHT cũng như chương trình hành động quốc gia về CNHT và lập Cục Công nghiệp hỗ trợ thuộc Bộ Công thương để quản lý và phát triển CNHT.[96]
1.1.2.2. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ
- Viện Kinh tế Việt Nam, (2007), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: nghiên cứu trường hợp công nghiệp hỗ trợ cho ngành sản xuất ô tô, xe máy”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện do TS. Nguyễn Trọng Xuân chủ nhiệm. Nhóm tác giả đã đánh giá khái quát CNHT Việt Nam, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển, đặc biệt là đi sâu phân tích thực trạng CNHT trong hai ngành ô tô và xe máy thông qua việc nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm hỗ trợ và thực trạng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong hai ngành này. Trên cơ sở đó đưa ra một loạt các giải pháp phát triển cho hai ngành ô tô và xe máy, đặc biệt là quan tâm, xây dựng một hệ thống CNHT đảm bảo phục vụ ngành công nghiệp ô tô, xe máy nói riêng, cũng như toàn ngành kinh tế nói chung.[112]
- Đại học Ngoại thương, (2008), “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam”. Đề tài khoa học cấp Bộ, TS. Nguyễn Hoàng Ánh chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, trong
chiến lược phát triển các ngành công nghiệp, Việt Nam nên lựa chọn, định hướng phát triển ngành công nghiệp điện tử trở thành ngành mũi nhọn, mang tính đột phá chiến lược vì có nhiều ưu thế và lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, trong chuỗi giá trị toàn cầu Việt Nam nên tập trung vào công đoạn sản xuất, là khâu có thể tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của các tập đoàn điện tử quốc tế, chứ chưa nên tham gia vào khâu thiết kế, phân phối của chuỗi giá trị. Trong quá trình đó, ở công đoạn sản xuất Việt Nam cần quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa hệ thống các sản phẩm hỗ trợ cho phát triển ngành công nghiệp điện tử.[5]
- Nguyễn Ngọc Sơn, (2008), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp số 359. Bài viết đưa ra các quan điểm về CNHT và CNHT ngành dệt may trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng ngành dệt may Việt Nam ở các tiêu chí như: lĩnh vực sản xuất xơ sợi tổng hợp, công nghiệp cơ khí ngành dệt may, công nghiệp hóa chất phục vụ ngành dệt may, tình hình sản xuất phụ liệu ngành dệt may... Trên cơ sở đó, tác giả đã đánh giá chung những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và chỉ ra nguyên nhân yếu kém của ngành dệt may và đưa ra giải pháp thúc đẩy CNHT ngành dệt may phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.[64]
- Trương Thị Chí Bình, (2010), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam”; Luận án tiến sĩ kinh tế, Khoa Quản trị kinh doanh, Viện Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Tác giả đã phân tích các luận cứ lý thuyết và thực tiễn về cách thức phát triển CNHT ngành điện tử gia dụng. Làm rõ bản chất, thành phần, các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển CNHT, từ đó khẳng định quan điểm “hợp lý” về phát triển CNHT cho Việt Nam là dựa trên mạng lưới của “lý thuyết trò chơi”, với vai trò tích cực của các TĐĐQG và các nhà cung ứng quốc tế. Tác giả còn phân tích quy trình sản xuất các sản phẩm điện tử gia dụng, xác định phạm vi của CNHT ngành điện tử gia dụng bao gồm quá trình sản xuất 3 nhóm sản phẩm chính: linh kiện điện và điện tử, linh kiện kim loại, linh kiện nhựa và cao su. Nghiên cứu lý do CNHT
ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam chưa phát triển và khẳng định, CNHT ngành điện tử gia dụng có thể phát triển, khi Việt Nam tham gia được vào các lớp cung ứng trong mạng lưới sản xuất của các TĐĐQG. Trên cơ sở các luận cứ này, Luận án kiến nghị một số giải pháp chính để phát triển CNHT ngành điện tử gia dụng: Xây dựng định hướng phát triển CNHT ngành ĐTGD Việt Nam với việc tập trung cung ứng các linh kiện kim loại và nhựa cho các lớp cung ứng trong mạng lưới sản xuất của các TĐĐQG, từ đó đề xuất chương trình phát triển CNHT ngành điện tử gia dụng; kiến nghị điều chỉnh Quy hoạch phát triển CNHT Việt Nam: xác định CNHT theo các ngành cung ứng; thu hẹp khái niệm CNHT; lựa chọn lĩnh vực ưu tiên và xây dựng chương trình hành động; xây dựng mô hình phát triển CNHT ngành ĐTGD theo 03 mức: Khu CNHT, Cụm liên kết ngành và Vườn ươm doanh nghiệp CNHT.[7]
- Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công thương, (2011), “Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ. Đề tài đã đánh giá tổng quan thực trạng phát triển CNHT của ngành dệt may. Đề tài được chia làm ba phần nghiên cứu, trong Phần I, nhóm tác giả đi sâu phân tích năng lực của các doanh nghiệp CNHT trong ngành dệt may Việt Nam trên các mặt như: năng lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực thị trường và nguồn nhân lực... Từ đó, đánh giá những tiềm năng, lợi thế trong phát triển ngành dệt may Việt Nam. Trong Phần II, các tác giả đã tập trung nghiên cứu mối liên kết trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay, đồng thời cũng nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng và vận hành mô hình liên kết phù hợp với bối cảnh phát triển CNHT ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, trong Phần III, nhóm tác giả đã đưa ra những giải pháp thúc đẩy CNHT ngành dệt may phát triển, trong đó đặc biệt nhấn mạnh hai giải pháp: nâng cao năng lực các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may và vận hành có hiệu quả các mô hình liên kết.[103]
- Nguyễn Thị Dung Huệ, (2012), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ