Kinh Nghiệm Của Một Số Quốc Gia Về Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ Trong Một Số Ngành Công Nghiệp Và Bài Học Cho Việt Nam


ứng mọi yêu cầu của các nhà lắp ráp. Mặt khác, CNH, HĐH là quá trình cải tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại. CNHT đòi hỏi phải có trình độ công nghệ, lao động chuyên môn hóa cao, nghĩa là quá trình đó sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, lao động được phân bổ vào các ngành, vùng khác nhau. Sự chuyển dịch lao động từ các ngành có năng suất lao động thấp sang các ngành có năng suất cao, từ lao động trình độ giản đơn sang lao động phức tạp được đào tạo trình độ cao, đáp ứng tiêu chuẩn, quá trình sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Đây được coi là một trong những chỉ tiêu quan trọng, phản ánh thực chất nhất mức chuyển biến của ngành kinh tế.

- Phát triển CNHT thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất và gắn phân công lao động quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Tạo ra các hình thức phân công lao động xã hội và tổ chức lao động hợp lý; thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa sản xuất của doanh nghiệp, tập trung thực hiện những công việc cùng loại nhất định. Đó là việc chế tạo những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau; thực hiện một số giai đoạn công nghệ của quá trình sản xuất sản phẩm; hoàn chỉnh hoặc tập trung chế tạo một số bộ phận, chi tiết của sản phẩm hoàn chỉnh… với năng suất lao động cao. Đặc trưng ngành CNHT, luôn gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh và có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật với các hãng lớn. Khi các mối liên hệ trở nên thường xuyên, ổn định thì chúng trở thành vệ tinh của các hãng lớn. Thông qua mối liên kết này, các doanh nghiệp của nước nhận đầu tư sẽ dễ dàng thâm nhập vào hệ thống phân công lao động của TNCs và MNCs. Đây là một trong những con đường chủ yếu để TNCs và MNCs cắm nhánh, khai thác thị trường thế giới thông qua việc đưa các doanh nghiệp này vào quỹ đạo hoạt động của mình để hình thành các chi nhánh cấp 2, cấp 3... Theo đà phát triển về năng lực sản xuất và trình độ công nghệ, các doanh nghiệp hỗ trợ này không chỉ cung cấp sản phẩm cho các xí nghiệp sản xuất ở trên địa bàn quốc gia, mà còn cung cấp cho mạng lưới các xí nghiệp chi nhánh của TNCs cắm ở hàng trăm quốc gia trên thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhiều nước đang phát triển luôn tận dụng tối đa các lợi thế so sánh nhằm tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế


và hệ thống thương mại toàn cầu, tăng cường hoạt động xuất khẩu. Thông qua đó, các sản phẩm của ngành CNHT vừa được xuất khẩu gián tiếp thông qua các sản phẩm công nghiệp chính của một nước, vừa được xuất khẩu trực tiếp như là các nguyên liệu đầu vào sang những nước có ngành công nghiệp lắp ráp tương đối phát triển. Đây cũng là con đường làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển và chủ động hơn trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và toàn cầu.

- Phát triển CNHT giúp tiếp thu chuyển giao công nghệ và là con đường nhanh nhất biến ngoại lực thành nội lực. CNHT phát triển trước sẽ tạo nguồn đầu vào, hỗ trợ quá trình sản xuất, tạo tiền đề thu hút FDI và FDI chính là một kênh chuyển giao KH - CN hữu hiệu; là một trong những phương thức để kéo dài vòng đời công nghệ, thu hẹp khoảng cách công nghệ giữa nước chuyển giao và tiếp nhận chuyển giao. Phương thức tiếp nhận KH - CN thông qua FDI sẽ có lợi hơn các phương thức khác, vì ngoài việc chuyển giao các máy móc, thiết bị, phần cứng, còn kèm theo chương trình đào tạo hướng dẫn sử dụng, nắm bắt và quản lý công nghệ, được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và kiểu dáng công nghiệp. Chi phí thấp hơn nhiều so với nghiên cứu, phát minh... hay mua trực tiếp công nghệ. Sự phát triển của CNHT cũng là nhân tố đưa nền công nghiệp nói riêng, nền kinh tế quốc gia nói chung tham gia vào quá trình phân công lao động, hợp tác quốc tế. Sản xuất ra những sản phẩm đa dạng về chủng loại, kiểu dáng và mẫu mã; thông qua đó, trình độ KH - CN được nâng cao, tạo ra những điều kiện mới để thu hút FDI và tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ mới, hiện đại hơn.

Phát triển CNHT làm gia tăng khả năng thu hút nguồn vốn FDI, các quốc gia tận dụng được nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, những tiến bộ KH - KT của các chủ thể kinh tế thế giới, phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Như vậy, CNHT là cầu nối vững chắc giữa nội lực và ngoại lực. Phát triển CNHT là con đường ngắn nhất, nhanh nhất để tranh thủ, tận dụng và sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại lực phát huy nội lực, phát triển kinh tế đất nước theo hướng bền vững, tích cực và chủ động trong hội nhập kinh tế khu vực cũng như thế giới.


- Phát triển CNHT nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. CNHT có vai trò quan trọng trong thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Khi CNHT đáp ứng đầy đủ điều kiện, trở thành “vệ tinh” cho các tập đoàn kinh tế chắc chắn sẽ thu hút được mức đầu tư lớn trong thời gian dài. Với mục tiêu đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tính đến rất nhiều yếu tố tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi, trong đó CNHT là yếu tố mang tính thuyết phục để các nhà đầu tư nước ngoài xem xét, nghiên cứu khi đưa ra quyết định đầu tư của mình. Để giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh cao, các TNCs thường tăng cường đầu tư vào những nước có hệ thống CNHT phát triển tương đối hoàn chỉnh. Khi nguồn vốn được đầu tư vào những ngành công nghiệp có CNHT phát triển sẽ thúc đẩy CNHT ngành đó và bản thân ngành đó phát triển. CNHT là cầu nối, vật truyền dẫn để TNCs, MNCs xâm nhập, thích ứng nhanh với thị trường nội địa. CNHT phát triển, tạo ra hệ thống hỗ trợ vững chắc, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn FDI. Khi các MNCs lựa chọn vị trí để đầu tư FDI, không chỉ xem xét lợi thế của chi phí lao động, còn tính tới những yếu tố đầu vào khác, đặc biệt là linh phụ kiện, nguyên vật liệu sản xuất - sản phẩm của CNHT. Tuy nhiên, không phải CNHT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI. Nhiều trường hợp FDI đi trước và kéo các công ty khác đầu tư phát triển CNHT. Nếu CNHT nội địa không cung ứng đủ linh, phụ kiện cần thiết cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, làm các nhà đầu tư gặp khó khăn, tăng chi phí sản xuất và sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

- Phát triển CNHT đảm bảo cung ứng các linh phụ kiện phục vụ hoàn chỉnh sản phẩm của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp. Việc tạo ra sản phẩm với chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường và đạt được lợi nhuận tối đa sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Phát triển CNHT tạo sự hoàn thiện, đổi mới cơ cấu sản phẩm cho các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp, theo các cách khác nhau, như: thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, kém sức cạnh tranh; giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất nhưng cải tiến về hình thức, nội dung; tạo những sản phẩm mới phù hợp với


Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan - 9

nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển của khoa học, công nghệ; chuyển hoá vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp... Phát triển CNHT, đảm bảo cung ứng các linh phụ kiện có cùng giá trị sử dụng nhưng tăng thêm một số đặc tính khác để thoả mãn yêu cầu, gia tăng cơ hội lựa chọn cho các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp. Mặt khác, thị trường luôn vận động, biến đổi làm nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phong phú hơn và tạo ra những thách thức đối với ngành CNHT phải năng động sáng tạo, bám sát diễn biến của quan hệ cung cầu trên thị trường, xây dựng cơ cấu sản phẩm tối ưu thích ứng với sự linh hoạt của sản phẩm trong các ngành công nghiệp.

- Phát triển CNHT đảm bảo cho các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hoạt động hiệu quả, hoàn thành được kế hoạch sản xuất. Phát triển CNHT, hình thành sự phân công lao động, liên kết, hợp tác, tiếp cận công nghệ, thiết bị hiện đại, cải tiến quy trình sản xuất,.. sẽ giúp các doanh nghiệp CNHT nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm lượng hàng lỗi, nâng cao dịch vụ nhằm cung cấp sản phẩm chất lượng đúng thời gian, hợp đồng hoặc kế hoạch sản xuất sản phẩm chính; mở rộng thị trường, thu hút đầu ra cho các cơ sở sản xuất hỗ trợ cấp dưới theo hợp đồng hoặc theo kế hoạch sản xuất sản phẩm chính. Đảm bảo cung ứng đầy đủ sản phẩm cho các ngành công nghiệp, giúp cho các ngành công nghiệp hoàn thành được mục tiêu, kế hoạch sản xuất đã đề ra. Khi các mối liên hệ thường xuyên và ổn định thì chúng trở thành vệ tinh của các hãng lớn. Việc các DNNVV “chen chân” vào chuỗi giá trị của các hãng lớn là yếu tố cốt tử của nền công nghiệp quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển.

- Công nghiệp hỗ trợ tạo giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp. Như phân tích trên, trong chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp, mỗi sản phẩm công nghiệp chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn, trung nguồn, hạ nguồn, (Sơ đồ 2.4) với nghiên cứu của GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda Nhật Bản, giai đoạn thượng nguồn và trung nguồn là khu vực tạo ra giá trị gia tăng cao hơn so với khu vực hạ nguồn và nó chiếm tỷ lệ lớn trong toàn bộ chuỗi giá trị của sản phẩm công nghiệp. Khu vực thượng nguồn, trung nguồn chính là


công đoạn của các ngành CNHT, còn khu vực hạ nguồn với các hoạt động gia công, lắp ráp là khu vực tạo ra giá trị gia tăng ít nhất [74]. Quá trình sản xuất ở khu vực thượng nguồn và trung nguồn thường diễn ra ở nhiều nước khác nhau, với đòi hỏi trình độ công nghệ, sức sáng tạo cao, quy trình sản xuất phức tạp, yêu cầu kỹ thuật quy cách, tiêu chuẩn chặt chẽ. Còn khu vực hạ nguồn, gia công lắp ráp có thể thực hiện ở bất kỳ nước nào, với những yêu cầu đơn giản hơn, kể cả trình độ công nghệ thấp. Hơn nữa, giá trị gia tăng lại nằm ở quy trình sản xuất sử dụng công nghệ cao chứ không phải nằm ở toàn bộ sản phẩm. Ở một số ngành công nghiệp, CNHT có thể chiếm tới 90% giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị của sản phẩm công nghiệp [25: 3]. Một quốc gia có thể tạo ra giá trị gia tăng của các sản phẩm công nghiệp khi khu vực thượng nguồn được sản xuất và cung ứng ngay trong nội địa. Việc phát triển CNHT, góp phần to lớn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và khai thác các nguồn lực trong nước; là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện thu hút được đầu tư nước ngoài, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH và là cơ sở để thực hiện hội nhập nền công nghiệp toàn cầu.

Bên cạnh những vai trò tích cực của phát triển CNHT, nó cũng đem lại

các vai trò mang tính không mong muốn, như:

- Các chính sách phát triển CNHT, không phải lúc nào cũng thành công; trong điều kiện nào đó quan niệm, sự nhìn nhận và triển khai lại mang tính ưu đãi chứ không phải mang tính hỗ trợ và thúc đẩy. Các ưu đãi cho phát triển CNHT chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu, còn sự phát triển của CNHT lại phụ thuộc vào sự chủ động của khối doanh nghiệp này.

- Việc thu hút đầu tư nước ngoài phát triển CNHT, nếu không thận trọng sẽ tạo ra nguy cơ phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài. Khi sản phẩm của các công ty cung ứng không thể bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng thì các công ty cung ứng sẽ trở nên phụ thuộc vào các tập đoàn đa quốc gia. Vì lý do này, các cuộc suy giảm hay khủng hoảng kinh tế thường kéo theo sự phá sản của


các công ty, doanh nghiệp cung ứng của các tập đoàn là điều rủi ro khó tránh khỏi. Hộp 2.2 cho thấy một trường hợp như vậy.

Hộp 2.2: Rủi ro của các nhà cung ứng linh kiện ô tô


Doanh số bán ô tô Mỹ giảm mạnh trong năm 2008 và năm 2009, General Motors và Chrysler đóng cửa một loạt các nhà máy và ngừng hoạt động các dây chuyền sản xuất, giảm bớt số lượng hàng tồn kho. Số lượng đơn đặt hàng sản xuất phụ tùng vì thế giảm mạnh. Hãng cung cấp phụ tùng ô tô đứng đầu thế giới, Visteon với một số chi nhánh tại Mỹ đó chính thức nộp đơn xin bảo hộ phá sản. Đây là hãng cung cấp phụ tùng lớn nhất cho Ford. Xu thế này cũng tiếp tục trong bối cảnh thêm nhiều nhà máy ô tô chuẩn bị đóng cửa. Metaldyne là hãng có quy mô nhỏ hơn Visteon rất nhiều, cũng đã có dự định sẽ bán phần lớn tài sản cho R.H.J. và Carlyle. Vụ việc Chrysler xin bảo hộ phá sản và khả năng General Motors cũng nộp đơn bảo hộ phá sản sẽ tiếp tục khiến nhiều công ty cung cấp phụ tùng ô tô phải đóng cửa.

Nguồn: [139]


- CNHT phát triển, một số ngành công nghiệp sẽ mất đi tính độc lập, do bị phụ thuộc vào chiến lược phát triển và điều tiết thị trường của các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI; dẫn đến các doanh nghiệp ở ngành công nghiệp, gián tiếp cũng bị phụ thuộc nhân tố này. Phát triển CNHT có thể sẽ đi lệch mục tiêu của chính sách, thường phát triển CNHT thiên về chính sách cứng và đẩy (mang tính bắt buộc). Trong tình hình hiện nay, các chính sách công nghiệp cứng (quy định nội địa hoá, chỉ định thầu…) khó phát huy tác dụng; chiến lược đẩy chỉ áp dụng thành công trong một điều kiện nhất định. Điều này đã được chứng minh trong chiến lược nội địa hoá của ngành sản xuất ôtô Việt Nam.

- CNHT phát triển, nhiều cơ sở đào tạo không đủ năng lực tham gia đào

tạo, phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp, sẽ dẫn đến hiện tượng đào tạo


dàn trải, thiếu thực tiễn, hoặc tay nghề, kỹ năng chưa phù hợp yêu cầu của doanh

nghiệp, gây lãng phí tài nguyên đất nước.

- CNHT phát triển, việc thực hiện chuyên môn hóa cao sẽ cắt khúc các công đoạn, phân chia lợi ích đối lập nhau giữa các công đoạn hay khép kín các công đoạn... nếu không xây dựng hài hòa mối quan hệ lợi ích, tính liên kết chặt chẽ có thể sẽ gây ra ách tắc, chậm lại dòng chảy, gây khủng hoảng cục bộ. Mặt khác, nếu chạy theo lợi nhuận hoặc lợi ích cục bộ không quan tâm lợi ích chung, dài hạn sẽ gây ra ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, thậm chí gây mất cân đối sản phẩm trong nền kinh tế... Môi trường nguy cơ bị ô nhiễm từ nước thải, chất thải rắn từ các ngành CNHT ngành dệt may, da giày (quá trình xử lý dệt, nhuộm, thuộc da...), công nghiệp cơ khí, hóa chất...

Để khắc phục những hạn chế trên, chúng ta cần nhận thức rõ và thiết lập một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về CNHT, xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển CNHT... đúng đắn, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế quốc gia, xu hướng phát triển chung của thế giới thì phát triển CNHT sẽ mang lại ngày càng nhiều những đóng góp tích cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Kinh nghiệm phát triển CNHT, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc dân và thu hút FDI để góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước ở các nước đi trước trong khu vực là bài học có giá trị tham khảo lớn đối với Việt Nam. Tác giả chọn đại diện khu vực Châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản và hai đại diện của khu vực Đông Nam Á là Thái Lan và Malaysia, đây là bốn quốc gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam để phân tích một số kinh nghiệm ề phát triển CNHT của các quốc gia trên và qua đó rút ra bài học kinh nghiệm, tìm hướng đi cho ngành CNHT Việt Nam.


2.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp

2.3.1.1. Về xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách

Nhiều quốc gia khi phát triển CNHT thời gian đầu, vai trò của Chính phủ rất quan trọng, trước hết là việc hình thành các chính sách. Thành công hay không, chủ yếu do các chính sách về CNHT có đủ mạnh hay không.

Nhật Bản, từ năm 1956 đã có Luật xúc tiến công nghiệp chế tạo máy, áp dụng chính sách hỗ trợ cụ thể cho các ngành CNHT; Luật Phòng chống trì hoãn thanh toán chi phí thầu phụ; Luật Xúc tiến doanh nghiệp thầu phụ nhỏ và vừa (năm 1970). Xây dựng các chính sách công nghiệp nhằm kịp thời đáp ứng những biến đổi trong môi trường kinh doanh, cân bằng lợi ích giữa SME và doanh nghiệp lớn [140]. Hiện nay, chính sách của Nhật Bản là thúc đẩy các doanh nghiệp liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, sử dụng có hiệu quả các phụ tùng giá rẻ của nước ngoài. Duy trì và tăng cường ưu thế về công nghệ và khâu khai thác phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã và hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thâm nhập thị trường ngoài nước. Các doanh nghiệp Nhật Bản rất thành công trong việc “xuất khẩu sản xuất” tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm trên toàn cầu, khai thác hiệu quả thị trường quốc tế với sức cạnh tranh cao.

Trung Quốc, cuối năm 1990 đã ban hành chính sách đa dạng hoá, tự do hoá, xây dựng mới kết cấu hạ tầng, ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến. Để phát triển CNHT, Trung Quốc thành lập các tổ chức làm cầu nối giữa khu vực tư nhân và Nhà nước, tăng cường phát triển tiềm năng KH

- CN quốc gia, đổi mới cơ chế tài chính, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân hợp tác và tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất từ đối tác nước ngoài, xúc tiến hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực [24]... Có cơ chế cho các doanh nghiệp phối hợp đề đạt với Chính phủ những yêu cầu hỗ trợ về mặt chính sách, cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh hướng vào thu hút FDI.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí