- Giải pháp tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ Việt Nam thông qua cơ chế điều chỉnh bằng lãi suất, Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Tô Kim Ngọc (2003).
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu đi sâu phân tích hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới khía cạnh kinh tế, khía cạnh pháp lý chưa được quan tâm nhiều. Do vậy, tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài: “Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo pháp luật Việt Nam”, làm rõ thực trạng pháp luật điều chỉnh các công cụ chính sách tiền tệ, từ đó đưa ra những bất cập và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao tính hiệu quả trong sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ; làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam về các công cụ chính sách tiền tệ, thực tiễn sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam để từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, học thuyết về chính sách tiền tệ; các quy định pháp luật về chính sách tiền tệ và thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trên thế giới nói chung và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào việc làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam; nghiên cứu một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và việc sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội như: phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, khảo sát, thống kê, hệ thống hóa, mô hình hóa, so sánh luật học… Các phương pháp này
được sử dụng ở những mức độ khác nhau để giải quyết những vấn đề khác nhau của đề tài nghiên cứu của luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Có thể bạn quan tâm!
- Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo pháp luật Việt Nam - 1
- Việc Điều Chính Pháp Luật Đối Với Các Công Cụ Của Chính Sách Tiền Tệ
- Thực Trạng Pháp Luật Điều Chỉnh Công Cụ Tái Cấp Vốn Và Thực Tiễn Áp Dụng
- Thực Trạng Pháp Luật Về Công Cụ Lãi Suất Và Thực Tiễn Áp Dụng
Xem toàn bộ 91 trang tài liệu này.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách tiền tệ và việc điều chỉnh pháp luật đối với các công cụ của chính sách tiền tệ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) quốc gia là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) xây dựng và tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
CSTT quốc gia hiểu theo nghĩa rộng là chính sách điều tiết toàn bộ khối cung tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn tài nguyên để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối vĩ mô nền kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị của đồng tiền quốc gia. CSTT quốc gia hiểu theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền cung ứng trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất mà Nhà nước giao cho Ngân hàng Trung ương thực hiện. Mỗi quốc gia có những quan điểm khác nhau về CSTT. Chẳng hạn, theo quan điểm của Frederic S.Mishkin – Trường Đại học Columbia (Mỹ) thì CSTT chính là việc mà Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System - FED) sử dụng đến các công cụ để điều tiết cung ứng tiền tệ, bao gồm: nghiệp vụ thị trường tự do, nghiệp vụ này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ; thay đổi lãi suất chiết khấu, thay đổi này ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ. Còn NHTƯ Châu Âu (ECB) lại quan niệm CSTT là việc sử dụng công cụ lãi suất ngắn hạn để thực hiện mục tiêu của CSTT, ổn định giá cả khu vực Châu Âu trong thời kỳ trung hạn. Theo quan điểm của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc: mục tiêu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền và theo đó đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế.
Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1999 định nghĩa: “Chính sách tiền tệ là chính sách của Nhà nước nhằm điều tiết (tăng, giảm) lượng tiền trong lưu thông để đạt được những mục tiêu nhất định như chống lạm phát, kích thích sản
xuất, giảm bớt thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế”.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số 46/2010/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2010 quy định: “CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Một cách tổng quát, chính sách tiền tệ quốc gia được hiểu là tổng thể những cách thức, biện pháp mà Nhà nước (thông qua Ngân hàng trung ương) sử dụng trên cơ sở được thể chế hoá bằng pháp luật nhằm điều hòa khối cung tiền tệ trong lưu thông sao cho phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của xã hội trong giai đoạn nhất định. Nói như vậy có nghĩa rằng chính sách tiền tệ quốc gia đồng nghĩa với chính sách bình ổn sức mua (hay giá trị) của đồng tiền nội địa. Một CSTT nới lỏng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất qua đó thúc đẩy đầu tư, tăng tổng cầu và có thể làm gia tăng lạm phát nếu mức tăng tiền quá lớn vượt mức sản lượng tiềm năng. Ngược lại, một CSTT thắt chặt sẽ có tác động giảm tổng cầu, qua đó lạm phát sẽ được kiềm chế [39].
Xét trên bình diện lí thuyết, chính sách tiền tệ quốc gia không chỉ là một khái niệm kinh tế thuần tuý mà thuật ngữ này còn bao hàm những nội dung pháp lý nhất định. Về phương diện kinh tế, chính sách tiền tệ quốc gia phản ánh những nghiệp vụ kinh tế được thực hiện bởi Ngân hàng trung ương nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế như làm tăng hoặc giảm sức mua của đồng nội tệ trong từng thời điểm nhất định, trên cơ sở đó mà tác động tới hệ thống giá cả hàng hoá, dịch vụ và các hoạt động kinh tế khác trên thị trường. Còn về phương diện pháp lí, chính sách tiền tệ quốc gia là sự thể hiện tập trung ý chí của Nhà nước trong việc ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát và ý chí này được thể chế hoá bằng những quy tắc pháp lí cụ thể có giá trị bắt buộc thi hành. Có thể khẳng định chính sách tiền tệ quốc gia là một loại chính sách kinh tế vĩ mô, có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế, tài chính khác. Như vậy, khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia bao hàm một nhân tố pháp lí quan trọng, đó là vai trò của pháp luật, với ý nghĩa vừa là hình thức pháp lí thể hiện chính sách tiền tệ quốc gia vừa là công cụ, phương tiện pháp lí để thực hiện chính sách này trên thực tế. [41]
Từ việc phân tích khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia như trên, có thể nhận thấy rằng chính sách tiền tệ quốc gia có những dấu hiệu nhận biết cơ bản như sau:
Thứ nhất, chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách kinh tế- tài chính quốc gia. Trong hệ thống chính sách kinh tế- tài chính, ngoài chính sách tiền tệ quốc gia còn có nhiều chính sách khác như chính sách tài khóa, chính sách thuế, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập... Các chính sách vĩ mô này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và mỗi chính sách đều có vị trí vai trò riêng của nó. Trong đó, chính sách tiền tệ quốc gia có vai trò hết sức to lớn nhằm điều hòa, kiểm soát lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã hoạch định trong một thời kỳ nhất định, Chính phủ cần phối kết hợp sử dụng nhiều chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách tiền tệ quốc gia.
Thứ hai, NHTƯ là người hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Do chính sách tiền tệ luôn hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ thì chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực hiện chính sách tiền tệ. Theo quy định của Luật NHNN năm 2010, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.
Thứ ba, nói đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, người ta thường nhắc đến và tìm cách phân biệt giữa mục tiêu cuối cùng; mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động. Mục tiêu cuối cùng của CSTT là mục tiêu về ổn định và tăng trưởng. Mục tiêu ổn định bao gồm ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá. Về mục tiêu tăng trưởng bao gồm đảm bảo công ăn việc làm và có tăng trưởng kinh tế... Thực tế cho thấy rằng, mặc dù mỗi quốc gia có chính sách tiền tệ riêng, phù hợp với đặc thù nền kinh tế của mình nhưng nói chung, mục tiêu của chính sách tiền tệ ở các nước về cơ bản là giống nhau, nhằm mục đích ổn định giá trị đồng tiền trong nước trên cơ sở nâng cao giá trị đối ngoại của đồng tiền.
Tóm lại, CSTT là một trong những chính sách quản lý kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình làm thay đổi khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, từ đó nhằm đạt được các yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của việc phát triển kinh tế quốc gia. Mặc dù việc điều hành CSTT giữa các thời kỳ, các giai đoạn phát triển kinh tế ở mỗi nước rất khác nhau song việc xây dựng và thực thi CSTT của các NHTƯ đều hướng đến mục tiêu tăng trưởng hay ổn định nền kinh tế.
1.1.2. Phân loại chính sách tiền tệ
Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua của đồng tiền trong nước luôn luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn của chính sách tiền tệ. NHTƯ điều hành chính sách tiền tệ phải kiểm soát được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền với tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu của lưu thông. Ở khía cạnh học thuật, chính sách tiền tệ quốc gia có thể được phân chia thành hai loại, gồm chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách tiền tệ thắt chặt.
Chính sách tiền tệ nới lỏng là chính sách tiền tệ theo đó NHTƯ tăng cường việc cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm vào chống suy thoái kinh tế [15]. Để chống suy thoái kinh tế, NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng bằng việc điều chỉnh giảm lãi suất thị trường, nới lỏng các hạn chế trong việc cấp tín dụng cho người vay, qua đó kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Việc nới lỏng tiền tệ còn tăng cường vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, mở rộng khả năng tài chính cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng chi tiêu dùng và đầu tư, chính sách tiền tệ nới lỏng còn tác động tới tăng xuất khẩu ròng. Khi lãi suất đồng nội tệ có xu hướng giảm xuống sẽ làm giảm giá của nội tệ so với ngoại tệ và do vậy kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là chi tiêu ròng của nước ngoài về hàng hóa, dịch vụ trong nước tăng làm tăng tổng cầu.
Chính sách tiền tệ thắt chặt là chính sách tiền tệ theo đó NHTƯ thực hiện việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát [16]. Khi nền kinh tế rơi
vào tình trạng lạm phát, NHTƯ sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. NHTƯ có hệ thống các công cụ trực tiếp và gián tiếp để sử dụng cho mục đích này. Việc thắt chặt tiền tệ có tác dụng làm giảm khả năng có được nguồn vốn tín dụng của người tiêu dùng và nhà đầu tư. Nói cách khác nó làm hạn chế khả năng tài chính của các công ty, nên nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các thành phần của tổng cầu. Do vậy, việc sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát có hiệu quả cao.
Về lý thuyết, có thể nhận thấy rằng chính sách tiền tệ được vận hành theo hướng nào là tùy thuộc vào tình trạng kinh tế và tiền tệ trong từng thời kỳ, thông qua nhiều công cụ khác nhau. Việc định hướng chính sách tiền tệ theo hướng nào, thực sự là nghệ thuật của các nhà hoạch định chính sách [15].
1.1.3. Các công cụ cơ bản để điều hành chính sách tiền tệ
Công cụ chính sách tiền tệ bao gồm một hệ thống các biện pháp nghiệp vụ đặc thù do NHTƯ thực hiện nhằm tác động vào khối tiền tệ của nền kinh tế để đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Các phân tích dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn nội dung và bản chất của từng công cụ điều hành chính sách tiền tệ do ngân hàng trung ương thực hiện.
Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Xét về thực chất, tỷ giá không hoàn toàn là công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không trực tiếp làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên, ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam thì tỷ giá hối đoái được coi là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng đến lạm phát thông qua hai khía cạnh sau: khi tỷ giá hối đoái tăng (tức là đồng tiền trong nước mất giá so với đồng tiền ngoại tệ) lúc đó sẽ thúc đẩy xuất khẩu trong nước nhưng nếu xuất khẩu tăng quá
cao sẽ dẫn tới tổng cầu cao hơn tổng cung làm cho giá của mặt hàng xuất khẩu trong nước tăng đột biến, lúc này lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. Thêm vào đó, tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho tâm lý của dân chúng lo sợ đồng nội tệ tiếp tục mất giá so với đồng ngoại tệ từ đó dẫn đến hiện tượng dân chúng đầu cơ và găm giữ ngoại tệ và làm cho giảm cầu nội tệ trong lưu thông. Lúc này sẽ phát sinh thêm nguy cơ lạm phát do có thặng dư cung tiền vì cầu nội tệ giảm.
Công cụ lãi suất
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được Ngân hàng trung ương điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tùy theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân cư và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Khi có lạm phát, Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi, chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào Ngân hàng thương mại và ngược lại. Ngân hàng thương mại mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người vay vì kinh doanh bằng vốn vay Ngân hàng thương mại không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát. Chính vì thế, ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài. Trong việc kiểm soát lạm phát thì đây là công cụ cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn, mặc dù