Thành Trùng, Ấu Trùng Và Nhộng Sâu Đục Trái Bắp

c) Rầy mềm Rhopalosiphum maidis (Fitch)

Còn có tên là Aphis maidis Fitch

Họ rầy mềm (Aphididae) - Bộ cánh đều (Homoptera)

* Phân bố và ký chủ

Loài này có phân bố rộng ở các nước nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở Việt Nam rầy mềm xuất hiện ở hầu hết các nơi trồng bắp. Ngoài bắp, rầy còn tấn công trên cây lúa, lúa miến, mía, một số loài cỏ làm thức ăn gia súc.

* Đặc điểm hình thái và sinh học

Thành trùng thân to, có hai dạng: dạng không cánh và dạng có cánh:

- Dạng không cánh màu vàng xanh hơi xám, dài từ 1,46 - 1,8 mm và chiều ngang cơ thể từ 0,5 - 0,8 mm. Đầu có 2 sọc dọc màu đậm, nhiều lông. Mỗi bên hông bụng có 2 đốm đen. Ấu trùng tuổi nhỏ màu xanh lá cây nhạt, chuyển dần sang xanh đậm và tím khi thành thành trùng. Phần cuối hai ống sáp màu đậm.

Dạng có cánh thân màu xanh lục đầu ngực và ống bụng màu đậm Cơ thể dài 1

- Dạng có cánh thân màu xanh lục, đầu, ngực và ống bụng màu đậm. Cơ thể dài từ 1,30 - 1,50 mm và rộng từ 0,48 - 0,70 mm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.


Hình 1.22: Rầy mềm không cánh và rầy mềm có cánh


* Tập quán sinh sống và cách gây hại

Rầy thường sống thành quần thể trên các bộ phận non như bẹ, lá non, bao cờ, có chỗ lẻ tẻ từ 5 - 7 con, có chỗ thành từng đám dày đặc. Rầy thích nhất bắp ở giai đoạn trổ cờ vì có nhiều chất dinh dưỡng. Cây còn non bị rầy tấn công sẽ còi cọc, phát triển kém và đôi khi không cho trái. Nếu cây cho trái được thì trái sẽ nhỏ, chất lượng kém.

Hình 1 22 Rầy mềm gây hại trên lá và trái bắp Ngoài cách gây hại trực tiếp 2Hình 1 22 Rầy mềm gây hại trên lá và trái bắp Ngoài cách gây hại trực tiếp 3

Hình 1.22: Rầy mềm gây hại trên lá và trái bắp


Ngoài cách gây hại trực tiếp như trên, rầy mềm còn là môi giới truyền bệnh khảm cho cây bắp làm lá bị quăn queo, cây không phát triển bình thường và chết.

d) Sâu đục thân Pyrausta nubilalis Hubner

Còn có tên là Ostrinia furnacalis (Guenée)

Họ ngài sáng (Pyralidae) - Bộ cánh vảy (Lepidoptera)

* Phân bố: loài sâu này xuất hiện nhiều ở các quốc gia trồng bắp trên thế giới như Ấn Độ, Canada, Hungary, Indonesia, Italy, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Pakistan, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam.

* Ký chủ: ở nước ta sâu gây hại chủ yếu trên cây bắp; ngoài ra, sâu còn xuất hiện trên các loại cây như đay, cà, lúa miến và một số loài cỏ thuộc họ hòa bản dùng làm thức ăn cho gia súc.

* Đặc điểm hình thái và sinh học

Ngài thường hoạt động vào ban đêm. Ngài đực có thân dài từ 12 - 14 mm, sải cánh rộng từ 22 - 28 mm. Cánh trước màu vàng tươi đến vàng nhạt, có hai sọc gãy khúc màu nâu hơi đậm chạy ngang cánh dọc cạnh ngoài, tiếp theo về phía ngực là các sọc gãy khúc khác nhưng màu nhạt hơn; cạnh trước và cạnh ngoài cánh màu đậm hơn khoảng giữa cánh và cạnh sau. Cánh sau màu sáng hơn và các đường vân mờ hơn cánh trước. Ngài cái có chiều dài thân từ 13 - 16 mm, sải cánh rộng 25 - 30 mm, cấu trúc vân trên cánh ngài cái giống ngài đực nhưng màu nhạt hơn. Thời gian sống của ngài cái khoảng 10 ngày. Một ngài cái có thể đẻ từ 10 - 200 trứng.

Trứng có hình bầu dục dẹp, khi mới đẻ màu trắng sữa, mặt trên trơn bóng. Vài ngày sau trứng có một chấm đen trông rõ dần lên. Thời gian ủ trứng từ 4 - 7 ngày.

Ấu trùng mới nở màu hồng, đầu đen, càng lớn sâu đổi dần thành màu trắng sữa. Mỗi đốt bụng có sáu đốm đen tròn, giữa đốm có một sợi lông mọc dài ra. Sâu lớn đủ sức dài từ 15 - 22 mm, màu nâu vàng, có những sọc nâu mờ chạy dọc trên lưng từ đầu đến cuối thân. Ấu trùng có 6 tuổi, phát triển từ 18 - 41 ngày.

Nhộng màu nâu nhạt, dài khoảng 15 - 19 mm. Giai đoạn nhộng phát triển từ 5 đến 12 ngày, trung bình từ 7- 12 ngày.



Hình 1.23: Thành trùng và ấu trùng sâu đục thân bắp


* Tập quán sinh sống và cách phá hại

Ngài rất thích ánh sáng đèn và hoạt động nhiều từ lúc chiều tối đến sáng. Ban ngày ngài thường trốn trong bẹ lá hoặc trong đọt cây bắp hay các bờ cỏ dại. Hai đến ba ngày sau khi vũ hóa ngài bắt đầu đẻ trứng. Ngài cái có tính chọn lọc nơi đẻ trứng, chỉ thích đẻ trứng ở những ruộng bắp xanh tốt và cây đang ở giai đoạn sinh trưởng thích hợp như cây có chiều cao trên 50 cm, nhưng thích nhất là những ruộng bắp sắp trổ cờ.

Trứng được đẻ thành ổ xếp chồng lên nhau như vảy cá, ít khi đẻ thành từng cái riêng lẻ, ngài đẻ nhiều ổ trứng trong nhiều đêm, mỗi đêm một ổ. Số trứng trên mỗi ổ thay đổi tùy nơi đẻ thích hợp hay không, thường từ 100 - 300 cái, trung bình từ 20 - 30 cái. Ổ trứng thường được đẻ ở mặt dưới lá, nhưng đôi khi cũng tìm thấy ở mặt trên và được gắn chặt vào mặt lá, trứng láng bóng, rất dễ nhận diện.

Sau khi nở, sâu ăn hết vỏ trứng và chất keo phủ ổ trứng, xong bò quanh ổ trứng một thời gian ngắn, sau đó phân tán nhả tơ nhờ gió đưa từ lá này sang lá khác hay từ cây này sang cây khác. Sâu gây hại mọi bộ phận của cây bắp tùy giai đoạn tăng trưởng của cây. Sâu tuổi nhỏ thích các lá chưa mở ra, bẹ lá hay vỏ trái

bắp hay râu bắp hoặc hoa đực (cờ bắp) vì ở tuổi 1 và 2 sâu chưa có khả năng đục vào thân.

Tùy giai đoạn tăng trưởng của cây bắp mà sâu có cách gây hại khác nhau như sau:

- Nếu bắp chưa có lóng, sâu chui vào loa kèn, ăn các lá còn cuốn lại.

- Nếu bắp đã có lóng thì bắt đầu từ tuổi 2 - 3 sâu chui vào nách lá và ăn ở mặt trong bẹ lá, sau đó đục vào thân, ngay phía trên mắt, và ăn dần lên. Sâu không thể đục qua mắt được nên phải chui ra ngoài mỗi khi muốn sang lóng khác. Trên một thân cây bắp có rất nhiều sâu sinh sống. Sâu gây hại nhiều nhất ở các tuổi 3, 4, 5 và đầu tuổi 6.




Hình 1.24: Sâu đục trên thân và trái bắp

Ngoài thân cây bắp, sâu còn tấn công trên cờ bắp, lúc còn ở bên trong thân hay đã trổ, ăn hoa đực, nhất là hạt phấn còn non. Sâu còn tấn công vào trái nhưng chỉ ăn vỏ hoặc lõi trái bắp. Thiệt hại do sâu đục thân gây ra nặng nhất là ở giai đoạn bắp đã trổ cờ, làm gãy cây hay gãy cờ, có khi đến 50%. Khi sống trên cờ bắp, ấu trùng phát triển nhanh hơn, thân to hơn và ngài đẻ nhiều trứng hơn.


Hình 1 25 Sâu gây hại trên cờ bắp Sâu làm nhộng bên trong đường đục ngay 4Hình 1 25 Sâu gây hại trên cờ bắp Sâu làm nhộng bên trong đường đục ngay 5

Hình 1.25 Sâu gây hại trên cờ bắp

Sâu làm nhộng bên trong đường đục, ngay phía trên lổ đục vào, đầu quay xuống dưới gần lổ đục và có tơ bít kín miệng lổ đục lại. Đôi khi sâu bò ra ngoài và làm nhộng giữa bẹ và thân, nhất là lúc mưa nhiều.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, trong một năm bắp được trồng thành 2 vụ chính là:

- Vụ thứ nhất vào các tháng 5, 6, 7; trong thời gian này các ruộng bắp gieo trễ bị thiệt hại nặng hơn các ruộng chính vụ hay gieo sớm.

- Vụ thứ hai vào các tháng 10, 11, 12; trong vụ này các ruộng bắp gieo sớm bị hại nhiều hơn các ruộng gieo trễ vì ẩm độ ở các tháng đầu cao hơn các tháng sau.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến mật số

+ Thời tiết

- Nhiệt độ thích hợp cho sâu phát triển là từ 15 - 320C.

- Ẩm độ: sâu cần ẩm độ không khí rất cao, vì ẩm độ ảnh hưởng nhiều đến tỉ lệ nở của trứng và sâu, ẩm độ thích hợp là từ 95 - 100%.

+ Thức ăn

- Sâu tuổi 1 và 2 thích những phần non mềm, nhiều nước, ít xơ như hoa đực lúc chưa nở, phần lá bên trong nõn hay râu trái bắp non.

- Sâu từ tuổi 3 trở đi thích những bộ phận ít nước nhưng nhiều đường như lóng thân cây bắp trổ cờ, lõi trái bắp hay hạt bắp non.

Nhìn chung, sâu đục thân bắp thích nhất bắp ở giai đoạn trổ cờ.

+ Thiên địch: trong thiên nhiên sâu thường bị một số loài ong và ruồi ký sinh làm giảm mật số rất nhiều.


e) Sâu đục trái Helicoverpa armigera Hubner

Họ ngài đêm (Noctuidae) - Bộ cánh vảy (Lepidoptera)

* Phân bố và ký chủ

Loài sâu này có diện phân bố rất rộng vì phạm vi cây chủ rất rộng, có thể đến 200 loại cây, nhưng chủ yếu là bắp, cà chua, đậu nành, các loại đậu xanh, trắng, đậu đũa, bông vải, thuốc lá, đay, bí, cà dài, cây thức ăn gia súc, sorgho, bông vạn thọ...

* Đặc điểm hình thái và sinh học

Ngài có chiều dài thân từ 15 - 20 mm, sải cánh rộng từ 30 - 40 mm, thân ngài màu vàng hồng lẫn xanh nhạt. Cánh trước màu vàng xám, có nhiều vân không rõ

rệt, vân gần bìa cánh hơi gợn sóng, có một chấm đen to khoảng 1 mm ở giữa cánh và một chấm nhỏ nằm khoảng 1/3 cánh tính từ thân. Cánh sau màu vàng tro nhạt, gần mép trên có một vân ngắn màu nâu đen. Từ cạnh ngoài trở vào có một dãi màu nâu, chiếm gần nửa cánh. Ngực ngài to, mang nhiều lông, râu hình sợi chỉ. Thời gian sống của ngài từ 5 - 19 ngày, thời gian trước khi đẻ trứng 1 - 7 ngày, trung bình 3 ngày. Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 2 - 13 ngày, trung bình 7 ngày và đẻ cao điểm vào ngày thứ hai. Một bướm cái có thể đẻ từ 200 - 2000 trứng.



Hình 1.26: Thành trùng, ấu trùng và nhộng sâu đục trái bắp


Trứng màu trắng ngà, hình bán cầu, đường kính khoảng 0,5 mm, có từ 20 - 30 gân dọc nổi lên chạy từ đỉnh đến đáy của trứng. Thời gian ủ trứng từ 3 - 7 ngày.

Ấu trùng có 5 - 6 tuổi, phát triển trong thời gian từ 15 - 20 ngày, tùy loại thức ăn. Ấu trùng tuổi 1, 2, 3 thường màu sắc không đổi dù sống trên loại thức ăn nào.

Nhưng từ tuổi 4 trở đi màu sắc rất thay đổi khi sống trên từng loại ký chủ khác nhau, có thể có màu hồng nhạt, màu trắng vàng, màu xanh nhạt hoặc màu xanh. Chi tiết ở mỗi giai đoạn tuổi như sau:

Tuổi 1: toàn thân ấu trùng mới nở phủ 1 lớp lông đen, dài khoảng 1,5 mm, lớn đủ sức dài khoảng 4 mm, đầu màu đen, đốt thứ nhất có một chấm đen to giữa lưng, các đốt khác trên lưng mang 12 chấm đen ở mỗi đốt. Ở tuổi này sâu có tập quán đo khúc khi di chuyển như các loài sâu đo và di chuyển rất nhanh. Ở tuổi 1 sâu phát triển rất đồng loạt, lột xác 2 ngày sau khi nở.

Tuổi 2: có hình dáng giống ấu trùng tuổi 1 nhưng to hơn, di chuyển không đo khúc, kích thước cơ thể là 8,5 x 1,5 mm. Giai đoạn này kéo dài từ 1- 5 ngày.

Tuổi 3: thân mang 12 chấm đen ở mỗi đốt. Cách sắp xếp các chấm này trên

các đốt khác nhau. Ở đốt thứ 4 và 5 các chấm này hiện rõ hơn các đốt khác. Sâu có kích thước cơ thể là 13,9 x 2 mm và phát triển trong thời gian từ 1 - 5 ngày.

Tuổi 4: thân thường có màu xanh lá cây và lông trên thân chuyển sang màu trắng. Kích thước cơ thể là 20 x 2,8 mm. Ở tuổi 4 sâu phát triển từ 1 - 3 ngày.

Tuổi 5: các chấm trên lưng biến mất, phần dưới bụng màu trắng. Tuổi này sâu có nhiều màu sắc hơn tuổi 4. Lông trên thân màu trắng cho tất cả các dạng ấu trùng. Kích thước cơ thể là 23,6 x 3,4 mm, phát triển từ 1- 4 ngày.

Tuổi 6: ấu trùng tuổi này có màu sắc rất khác nhau. Lông trên thân vẫn còn màu trắng. Cuối tuổi 6 cơ thể sâu thu nhỏ lại và chui xuống đất hóa nhộng. Thời gian tuổi này kéo dài từ 2 - 3 ngày

* Tập quán sinh sống và cách gây hại

Ngài thường vũ hóa vào ban đêm, mọi hoạt động như giao phối, bắt cặp và đẻ trứng đều xảy ra vào ban đêm. Ban ngày ngài hay ẩn trong các bụi cỏ, lá cây, không hoạt động. Trên mỗi loại cây sâu thường có cách gây hại khác nhau.

Ngài đẻ trứng trên râu trái bắp. Ấu trùng sau khi nở ra ăn trụi râu bắp và từ đó chui vào trái bắp ăn hết hạt bắp còn non, đặc biệt là sâu chỉ ăn hạt, đôi khi tấn công cả vỏ và cùi bắp nhưng rất hiếm. Sâu thường chui xuống đất để làm nhộng nhưng đôi khi cũng làm nhộng ngay tại nơi đang ăn trên trái bắp. Khi cây bắp còn non, chưa có trái, sâu đục xuyên qua loa kèn để ăn lá nên khi lá trổ ra sẽ có những hàng lổ đục thẳng thành hàng ngang qua phiến lá.


1.3. Thành phần côn trùng hại quan trọng trên khoai lang

a) Sâu sừng

Loài 1: Herse convolvuli (Lin.), còn có tên là Agrius convolvuli (Lin.) Loài 2: Acherontia lachesis (Fabricius)

Cả 2 loài thuộc họ ngài nhộng vòi (Sphingidae), bộ cánh vảy (Lepidoptera).

* Ký chủ: sâu có phổ ký chủ rất rộng. Ngoài khoai lang, sâu còn gây hại các loại đậu, cà chua, thuốc lá, đậu bắp, mè...

* Đặc điểm hình thái và sinh học

+ Agrius convolvuli Linnaeus

Thành trùng có bụng rất to, nhiều lông, mỗi đốt có một hàng lông màu xám đen xen hồng. Cuối bụng nhọn. Chiều ngang cả hai cánh đều rất hẹp so với chiều dài thân mình. Cánh trước căng dài từ 8 - 11 cm, màu xám, trên có nhiều vân và sọc màu đậm.

Trứng tròn, màu xanh khi mới đẻ, được đẻ rời rạc ở mặt dưới lá. Thời gian ủ trứng từ 5 - 7 ngày.

Sâu mới nở màu xanh, có những vằn xiên hai bên hông cơ thể, hoặc có thân màu đen với các vằn màu vàng nâu hai bên hông, đốt sau cùng có một gai đưa lên giống như cái sừng nên có tên gọi là "Sâu Sừng". Sâu phát triển trong thời gian khoảng 3 tuần và lớn đủ sức dài từ 8 - 12 cm.

Nhộng màu nâu đỏ, đầu nhộng có một vòi cong xuống phía đuôi còn có tên gọi là "Ngài nhộng vòi", được hình thành dưới đất và phát triển từ 10 - 12 ngày.


Hình 1 27 Ấu trùng nhộng và thành trùng sâu sừng Agrius convolvuli Linnaeus Acherontia 6Hình 1 27 Ấu trùng nhộng và thành trùng sâu sừng Agrius convolvuli Linnaeus Acherontia 7

Hình 1.27: Ấu trùng, nhộng và thành trùng sâu sừng Agrius convolvuli

Linnaeus


+ Acherontia lachesis (Fabricius)

Ngài có thân chủ yếu màu nâu, ngực màu xám đậm. Cánh sau màu vàng với những băng màu vàng ngang dọc.

Trứng màu xanh lá cây, được đẻ rải rác thành từng cái, sau chuyển thành màu vàng cam. Thời gian ủ trứng khoảng 5 ngày.

Ấu trùng màu xanh lá cây với những sọc xiên màu vàng dọc hai bên thân. Đốt cuối của bụng cũng có một gai thịt nhô cao như cái đuôi nhưng cong không thẳng như ở Herse (Agrius). Ấu trùng phát triển khoảng 3 tuần và lớn đủ sức có thể dài từ 10 - 12 cm.

Nhộng hình thành trong đất và kéo dài khoảng 18 ngày.

* Tập quán sinh sống và cách gây hại: vì cơ thể lớn nên 2 loài sâu trên ăn phá rất nhiều, sâu ăn trụi cả lá, làm cây xơ xác.

b) Các loài miểng kiếng

Trên khoai lang có nhiều loài miểng kiếng gây hại nhưng thường gặp nhất là

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 07/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí