* Tập quán sinh sống và cách gây hại:
Ngài vũ hóa, bắt cặp và đẻ trứng vào ban đêm, ban ngày ẩn nấp. Ngài bị thu hút mạnh bởi ánh sáng đèn, nhất là ngài cái.
Ngài cái thường đẻ trứng ở các ruộng lúa hoặc mạ có màu xanh đậm, rậm rạp và thích tập trung nhiều ở những ruộng gần bờ mương, nơi có bóng mát.
Sâu non mới nở rất nhanh nhẹn, bò khắp trên lá, thân cây và chui vào mặt trong của bẹ lá ăn phần xanh, chừa lại lớp màng trắng mỏng trên lá lúa. Sang tuổi 2, sâu bò đến các lá già nhả tơ ở 2 bìa lá lúa khoảng giữa lá, sợi tơ gặp không khí sẽ khô và rút hai bìa lá lại, mặt trên lá cuốn vào bên trong thành một cái bao theo chiều dọc lá lúa, sâu ẩn trong đó và cạp ăn phần xanh của lá để sinh sống.
Hình 1.7: Triệu chứng lá bị cuốn do ấu trùng sâu cuốn lá nhỏ
Chỉ có 1 sâu trong một cuốn lá. Sâu tuổi lớn có thể ăn 1 - 2 lá lúa trong một ngày và có khả năng nhả tơ dệt gập lá theo chiều ngang, đôi khi chập 2 - 5 lá cuốn thành một bao. Sâu nằm trong bao, có thể ăn phá suốt ngày đêm. Sâu còn có thể di chuyển hẳn ra khỏi bao cũ để gây hại các lá mới. Một con sâu từ khi nở đến trưởng thành có thể gây hại từ 3 - 5 lá. Sâu thường di chuyển vào buổi chiều, nếu trong ngày trời mưa hoặc râm mát thì sâu có thể di chuyển bất cứ lúc nào. Sâu non lớn đẩy sức chuyển từ màu xanh sang vàng hồng và có thể hóa nhộng ngay nơi đã sinh sống hoặc chui ra khỏi bao cũ tìm vị trí khác hóa nhộng. Sâu có thể nhả tơ, cắn đứt hai đầu lá và bịt lại thành bao kín để hóa nhộng bên trong. Lá lúa bị sâu gây hại sẽ khô, cây héo, giảm năng suất, nhất là khi sâu tấn công lá cờ.
Có thể bạn quan tâm!
- Côn trùng chuyên khoa Nghề Bảo vệ thực vật - Cao đẳng Phần 1 - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp - 1
- Côn trùng chuyên khoa Nghề Bảo vệ thực vật - Cao đẳng Phần 1 - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp - 2
- Các Giai Đoạn Trong Vòng Đời Muỗi Hành
- Bọ Xít Trưởng Thành Và Triệu Chứng Gây Hại Trên Hạt Gạo
- Thành Trùng, Ấu Trùng Và Nhộng Sâu Đục Trái Bắp
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
Hình 1.8: Ấu trùng bên trong lá bị cuốn
* Các yếu tố ảnh hưởng đến mật số
- Thức ăn: giống lúa nhảy nhiều chồi, lá xanh đậm, thu hút ngài cái tới đẻ trứng. Lúa lại được trồng nhiều vụ trong một năm nên trên đồng ruộng luôn có thức ăn cho sâu.
- Thời tiết: sâu cuốn lá nhỏ thích hợp vụ Đông - Xuân vì thời tiết thuận lợi để cây lúa phát triển tốt. Nhiệt độ thích hợp đối với sâu cuốn lá nhỏ là 25 - 29oC, và ẩm độ trên 80%.
- Thiên địch: nhóm thiên địch của sâu cuốn lá nhỏ có vai trò quan trọng trên đồng ruộng, chủ yếu gồm các loài sau:
- Ong họ Trichogrammatidae ký sinh trứng.
- Ong thuộc các họ Braconidae, Ichneumonidae, Chalcididae thường ký sinh ấu trùng và nhộng.
- Nấm và virus ký sinh sâu non.
- Một số loài thuộc bộ cánh cứng ăn ấu trùng.
- Một số loài nhện, chuồn chuồn ăn thành trùng.
c) Các loài sâu đục thân
Sâu đục thân lúa còn gọi là sâu ống hoặc sâu nách. Có 6 loài sâu đục thân lúa chính ở Á châu, nhưng ở Việt Nam chủ yếu có 4 loài sau:
- Sâu đục thân màu vàng: còn gọi là sâu đục thân hai chấm, có tên khoa học là Scirpophaga incertulas = Tryporyza incertulas, Schoenobius incertulas, Scirpophaga incertullus, Tryporyza incertullus, Schoenobius incertullus, Scirpophaga bipunctifer (Walker), Tryporyza bipunctifer, Schoenobius bipunctifer.
- Sâu đục thân sọc nâu đầu đen có tên khoa học là Chilo polychrysus Meyrick
= Chilotraea polychrysus, Chilo polychrysa, Chilotraea polychrysa.
- Sâu đục thân sọc nâu đầu nâu có tên khoa học là Chilo suppressalis Walker
= Chilo simplex Walker
Ba loài sâu trên thuộc họ ngài sáng (Pyralidae), bộ cánh vảy (Lepidoptera).
- Sâu đục thân màu hồng có tên khoa học là Sesamia inferens Walker, họ ngài đêm (Noctuidae), bộ cánh vảy (Lepidoptera).
* Phân bố: các loài sâu đục thân lúa được ghi nhận xuất hiện tại các quốc gia như Afghanistan, Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Burma, Indonesia, Campodia, Lào, Malaysia, Nepal, New Guinea, Philippines, Pakistan, Sri - Lanka, Việt Nam, miền nam các nước Nhật, Trung Quốc và Triều Tiên.
Riêng sâu sọc nâu đầu đen trước kia được ghi nhận chỉ gây hại ở Malaysia nhưng gần đây xuất hiện phổ biến ở nhiều nơi như Burma, Ấn Độ, Campodia, Lào, Nepal, Philippines, Việt Nam và miền Nam Trung Quốc.
* Ký chủ: ngoài cây lúa, các loài sâu đục thân lúa có thể sinh sống được trên các loại cây như mía, bắp, lúa hoang, các loại cỏ như cỏ lồng vực, Sacciolepis (cỏ mồm), Scirpus (cỏ năng tượng), Setaria, Phragmites (cỏ sậy), Typha (cỏ nến, bồn bồn), Panicum (cỏ sả), Paspalum (cỏ Pas), Zizania (cỏ lùng), Echinochloa (cỏ gạo). Đặc biệt là sâu đục thân màu vàng chỉ sống trên lúa và lúa hoang.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Sâu đục thân màu vàng Scirpophaga incertulas (Walker)
Ngài cái có chiều dài thân từ 10 - 13 mm, sải cánh rộng từ 23 - 30 mm, thân và cánh có màu vàng nhạt, giữa cánh có một chấm đen to. Cuối bụng có chùm lông màu vàng nhạt dùng để phủ lên ổ trứng. Ngài đẻ đêm thứ ba sau khi vũ hóa và liên tiếp từ 2 - 6 đêm, cao nhất là đêm thứ 2 và 3, một ngài cái có thể đẻ từ 200
- 300 trứng. Trứng được đẻ thành từng ổ từ 50 - 80 cái và mỗi đêm một ngài cái đẻ từ 3 - 6 ổ trứng.
Ngài đực có thân dài từ 8-10 mm, sải cánh rộng từ 18-20 mm. Đầu, ngực và cánh trước màu nâu nhạt. Cánh trước có dạng hình tam giác, giữa có một chấm đen nhỏ. Từ góc trên của cánh trước có một vệt xiên vào giữa cánh màu nâu đen lợt, cạnh ngoài cánh có 8-9 chấm đen nhỏ. Thời gian sống của ngài đực độ 4-5 ngày và của ngài cái từ 5-7 ngày.
Trứng nhỏ, màu trắng, thời gian ủ trứng từ 5 - 8 ngày.
Hình 1.7: Ổ trứng và sâu non mới nở
Sâu non màu trắng sữa, đầu màu nâu nhạt, lớn đủ sức dài 20-25 mm. Sâu có 5 tuổi, phát triển trong thời gian từ 25-35 ngày.
Nhộng dài 10 - 15 mm, màu nâu nhạt, kéo dài từ 7-10 ngày. Vòng đời sâu đục thân màu vàng từ 45-70 ngày.
Hình 1.9: Vòng đời sâu đục thân lúa màu vàng
Sâu đục thân sọc nâu đầu đen Chilo polychrysus Meyrick
Ngài đực có chiều dài thân từ 7- 9 mm, sải cánh rộng 20 - 23 mm. Đầu ngực màu nâu nhạt, bụng màu nâu xám. Cánh trước màu vàng nâu, cạnh ngoài có 1 hàng chấm đen, giữa cánh có 6 - 7 chấm đen nhỏ. Cánh sau màu nâu nhạt, lông
viền cánh màu trắng bạc. Ngài cái có kích thước cơ thể từ 9 - 12 mm, sải cánh rộng 23 - 28 mm. Râu đầu dạng sợi chỉ màu xám tro và màu nâu xám xen kẻ nhau. Cánh trước màu nâu vàng. Thời gian sống của ngài từ 5 - 7 ngày.
Trứng hình bầu dục dẹp, mới đẻ màu trắng, dần dần chuyển thành vàng nhạt đến vàng tro, dài từ 0,70 - 0,85 mm, ngang từ 0,45 - 0,60 mm. Ổ trứng xếp theo dạng vảy cá, thường là 1- 3 hàng, nhiều nhất là 5 - 7 hàng. Một ổ trứng có khoảng 20 - 150 cái. Thời gian ủ trứng từ 5 - 7 ngày.
Sâu non lớn đủ sức dài từ 16 - 25 mm. Đầu màu nâu đậm hoặc đen, lưng có 5 sọc nâu chạy dọc từ đầu đến cuối bụng. Sâu có 5 tuổi, phát triển trong thời gian từ 20 đến 25 ngày.
Nhộng có chiều dài từ 9 - 16 mm, ngang 2 mm. Khi mới hình thành nhộng màu vàng, mặt lưng có 5 sọc dọc màu đỏ nâu, càng ngày nhộng càng đậm dần. Giai đoạn nhộng kéo dài từ 6 - 10 ngày.
Vòng đời sâu đục thân sọc nâu đầu đen khoảng 36 - 45 ngày. Sâu đục thân sọc nâu đầu nâu Chilo suppressalis Walker
Ngài đực dài 10 - 13 mm, sải cánh rộng 20 - 25 mm. Đầu, ngực màu nâu tro nhạt, mắt kép đen, râu đầu hình sợi chỉ, nhưng những đốt cuối có hình răng cưa nhỏ. Cánh trước màu rơm đến nâu nhạt, có một hàng chấm màu tím đen ở gần sát cạnh ngoài và 5 đốm đen mờ ở giữa cánh. Cánh sau màu trắng vàng. Bụng thon nhỏ.
Ngài cái có thân dài từ 12 - 15 mm, sải cánh rộng từ 25 - 31 mm. Râu đầu hình sợi chỉ. Trên cánh không có những chấm đen giữa cánh như ngài đực, cạnh ngoài cánh có 7 chấm đen. Một ngài cái đẻ từ 150 - 250 trứng. Thời gian sống của ngài từ 5 - 7 ngày.
Trứng đẻ thành từng ổ, xếp hình vảy cá. Trứng hình bầu dục dẹp. Trứng mới đẻ màu trắng, sau chuyển dần thành màu nâu, sắp nở có màu đen. Trứng đẻ gần chân của lá lúa, không phủ lông. Thời gian ủ trứng từ 4 - 7 ngày.
Sâu non lớn đủ sức dài từ 18 - 20 mm, màu nâu nhạt, trên lưng có 5 sọc màu nâu chạy suốt chiều dài thân. Sâu có 5 tuổi, phát triển trong vòng từ 26 -35 ngày.
Nhộng màu nâu vàng, dài từ 10 - 12 mm. Giai đoạn nhộng từ 5 - 7 ngày. Vòng đời sâu đục thân sọc nâu đầu nâu từ 40 - 70 ngày.
Sâu đục thân màu hồng Sesamia inferens Walker
Ngài có chiều dài từ 12 - 15 mm, sải cánh rộng từ 27- 30 mm. Đầu, ngực màu vàng tro, bụng màu nâu nhạt. Râu đầu của ngài đực ngắn, hình răng lược, râu ngài cái hình sợi chỉ. Cánh trước có dạng hình chữ nhật màu nâu lợt, gân cạnh
ngoài cánh có màu xám đen. Ngay chính giữa cánh có một vân dọc màu nâu tối kéo dài từ góc cánh đến cạnh ngoài của cánh. Cánh sau màu trắng bạc, cạnh ngoài cánh màu nâu nhạt và có rìa lông. Ngài sống từ 4 - 10 ngày.
Ngài cái bắt đầu đẻ trứng vào 2 hoặc 3 ngày sau khi giao phối. Thời gian đẻ trứng từ 5 - 6 ngày, nhiều nhất là 10 ngày. Số lượng trứng đẻ phần lớn tập trung trong 3 ngày đầu. Mỗi ngài cái có thể đẻ từ 1 - 15 ổ trứng, trung bình 4 - 5 ổ. Số lượng trứng trong mỗi ổ thay đổi tùy theo lứa sâu trong năm, trung bình từ 200 - 250 trứng. Trứng có tỉ lệ nở rất cao, có thể trên 80%.
Trứng hình bán cầu hơi dẹp, đỉnh hơi lõm. Trên bề mặt trứng có các khía dạng mạng nhện. Trứng mới đẻ màu trắng, khi gần nở màu tím. Thời gian ủ trứng từ 4 - 8 ngày.
Sâu lớn đủ sức dài từ 20 - 30 mm, đầu nâu đậm, mặt dưới ngực và bụng màu vàng nhạt, mặt lưng màu hồng tím. Sâu có 5 tuổi và phát triển từ khi nở đến lớn đủ sức từ 20 - 40 ngày.
Nhộng to, màu nâu sậm, dài 12 - 15 mm. Nhộng phát triển từ 7 - 10 ngày. Vòng đời sâu đục thân màu hồng từ 45 - 60 ngày
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Sâu đục thân màu vàng
Ngài vũ hóa vào ban đêm và có thể giao phối ngay sau khi vũ hóa và 2 ngày sau bắt đầu đẻ trứng. Ngài thích đẻ trứng trên những đám ruộng xanh tốt, rậm rạp. Ban ngày ngài ẩn trong tán lá lúa rậm rạp gần mặt nước. Ngài bắt đầu hoạt động mạnh khi trời vừa tối và mạnh nhất từ 19 - 20 giờ đối với ngài cái và từ 23 giờ khuya đến 1 giờ sáng đối với ngài đực. Ngài rất thích ánh sáng đèn và vào đèn nhiều lúc trăng tròn. Ngài có thể bay xa đến 2 km để tìm thức ăn.
Sâu non mới nở gặm ăn chất keo và lông phủ lên ổ trứng hay ở đáy ổ trứng chui ra. Sâu tấn công cây lúa bằng hai cách tùy giai đoạn sinh trưởng của cây lúa:
- Lúa ở giai đoạn mạ hoặc đẻ nhánh. Sâu mới nở nhả tơ nhờ gió đưa sang các bụi lúa lân cận hoặc một số rớt xuống nước và nhờ gió đưa theo dòng nước phân tán đến các cây khác. Khoảng 90% sâu phân tán được đến các cây khác, nhưng chỉ 40% trong số trên là có thể sống và đục được vào thân cây lúa. Sau khi phân tán đến các lá, sâu chui vào bên trong bẹ lá, ăn mặt trong của bẹ từ 3 - 5 ngày. Sang tuổi 2, miệng đủ cứng, sâu đục thân cây lúa chui vào bên trong thân, ngay phía trên mắt và thường dùng tơ bịt kín lỗ đục để nước không chui vào. Sâu ăn phá đọt non của cây lúa làm cho dưỡng chất và nước không di chuyển lên nuôi đọt được nên đọt bị héo khô, gọi là “chết đọt”.
Hình 1.10: Hiện tượng chết đọt
- Lúa sắp trổ hoặc mới trổ. Sâu đục qua lá bao đòng chui vào giữa thân xong bò dần xuống phía dưới ăn điểm sinh trưởng, cắt đứt các mạch dẫn chất dinh dưỡng nuôi bông làm cho bông bị lép trắng gọi là “bông bạc”.
Hình 1.11: Hiện tượng bông bạc
- Ở tuổi nhỏ sâu có thể sống trong thân cây mạ, khi cơ thể lớn (tuổi 3), sâu chui ra ngoài vì thân cây nhỏ so với cơ thể sâu; sâu cắn đứt thân mạ một đoạn ngắn hoặc cắn đứt một đoạn lá xong cuốn lại thành ống và sống trong đó, khi di chuyển sâu mang theo mình đoạn thân mạ hoặc cuốn lá đó, do đó sâu đục thân còn có tên gọi là “sâu ống”. Thời gian sinh trưởng của sâu non, tỉ lệ ngài cái và đực và số lượng trứng của mỗi ngài cái sinh sống trên mạ thường kém hơn so với sâu sống trên lúa đã cấy.
Tỉ lệ sâu đục vào thân cây lúa cao hoặc thấp tùy theo tuổi của cây:
- Cây lúa ở giai đoạn mạ hay còn nhỏ, bẹ ôm sát thân, không thuận lợi cho
sâu non vì khó đục được vào bên trong thân cây lúa, do đó sâu phải kéo dài thời gian phát triển. Sâu sống trong ruộng mạ càng lâu tỉ lệ chết càng nhiều. Việc nhổ mạ đem cấy cũng làm tăng tỉ lệ chết của sâu non.
- Khi cây lúa đẻ nhánh bẹ rất mềm, sâu đục vào dễ dàng.
- Trên lúa đứng cái, các tầng bao lá dày cứng và nhiều, sâu đục vào khó khăn nên thường bị chết nhiều.
- Giai đoạn làm đòng, lúa chỉ có một bao đòng nên sâu đục vào bên trong thân cây lúa dễ dàng.
- Lúc lúa trổ, thân cây lúa cứng nên sâu khó xâm nhập.
Đặc điểm của sâu này là chỉ một con sống trong một thân cây lúa; khi hết thức ăn sâu chui ra ngoài tấn công sang cây khác, do đó sâu có khả năng phá hại rất cao.
Sâu cần ẩm độ cao để hóa nhộng (trên 90%), do đó, sâu thường làm nhộng bên trong thân cây lúa hoặc dưới mặt đất độ 1 - 2 cm, đôi khi nếu đồng ruộng khô hạn sâu có thể chui xuống cách mặt đất độ 10 cm để hóa nhộng. Trước khi hóa nhộng sâu đục sẵn một lỗ ở thân cây lúa, chừa lại lớp biểu bì để khi nở ngài chui ra ngoài.
Hình 1.12 Ấu trùng sâu đục thân 2 chấm
Sâu đục thân sọc nâu đầu đen
Ngài thường nở về đêm và ngài cái đẻ trứng 2 - 3 ngày sau khi vũ hóa. Ngài thích ánh sáng đèn nhưng yếu hơn so với ngài hai chấm. Ngài cái bị thu hút bởi ánh sáng đèn nhiều hơn ngài đực.
Trứng được đẻ chủ yếu trên mặt lá, thường nở vào buổi sáng và có tỉ lệ nở rất cao.