Khái Niệm Chính Sách Đối Với Kinh Tế Có Vốn Fdi


Như vậy, có thể nói đây là Luận án Tiến sĩ kinh tế đầu tiên nghiên cứu một cách độc lập, toàn diện cơ sở khoa học về chính sách đối với kinh tế có vốn FDI ở Việt Nam và đưa ra những khuyến nghị giải pháp trong việc hoàn thiện chính sách đối với chủ thể kinh tế này khi Việt Nam đã gia nhập WTO, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu

- Làm rõ cơ sở khoa học của việc hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn FDI ở Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh nghiệm một số nước trong khu vực có điều kiện tương đồng.

- Đánh giá thực trạng chính sách đối với kinh tế có vốn FDI ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế.

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính sách để phát triển chủ thể kinh tế này ở Việt Nam những năm tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài rất rộng, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, luận án này sẽ chủ yếu phân tích chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời, luận án sẽ tiếp cận chính sách nhà nước với tư cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững.

Về thời gian: từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 đến cuối năm 2009.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh đối chiếu được sử dụng trong Luận án để rút ra những kết luận có tính quy luật về các hiện tượng kinh tế. Kết hợp lịch sử tư duy

Cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách nhà nước đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài FIE ở Việt Nam - 4


và lịch sử tư tưởng và vận dụng phương pháp tái tạo lịch sử, làm cơ sở hệ thống hoá và làm sáng tỏ một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn, cũng như phương pháp luận để đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu những tác động lẫn nhau giữa chính sách và kinh tế có vốn FDI trong quá trình vận động, làm cơ sở để phân tích thực trạng và quan điểm, định hướng, để hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn FDI trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Tiếp cận nghiên cứu vấn đề từ: Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng và sự phù hợp giữa cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng nghiên cứu phân tích làm rõ tác động lẫn nhau giữa chính sách và kinh tế có vốn FDI trong quá trình vận động. Chính sách nói chung, chính sách kinh tế nói riêng là bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, do hệ thống các quan hệ kinh tế quy định và có tác động trở lại đối với các quan hệ kinh tế.

6. Những đóng góp của luận án

Luận án góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình hình thành khu vực FDI và khẳng định sự ra đời của kinh tế có vốn FDI là một xu thế khách quan, có tính quy luật của nền kinh tế thế giới.

Luận án đã phân tích quá trình vận động của khu vực FDI dưới tác động chính sách của Nhà nước đối với chủ thể kinh tế này ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Nhờ đó đã cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam, thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng hiệu quả và tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế trong suốt gần 25 năm qua.

Luận án chỉ ra những bất cập và hạn chế của hoàn thiện hệ thống chính sách đối với kinh tế có vốn FDI ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế này. Trọng tâm nhấn mạnh việc Việt Nam đã chưa thành công trong việc hoàn thiện chính sách phát huy các yếu tố nội lực để thu hút và định hướng dòng FDI vào những lĩnh vực mong muốn và để phát huy được lợi thế so sánh của mình.


Trên cơ sở các phân tích về tác động của hoàn thiện chính sách đối với sự vận động của dòng FDI vào Việt Nam trong hơn 20 năm qua và dự báo về xu hướng vận động của dòng vốn này trên thế giới và khu vực thời gian tới, tác giả đưa ra phương hướng, quan điểm và một số khuyến nghị trong quá trình hoàn thiện chính sách đối với khu vực FIE; đồng thời đã đề xuất hệ thống các nhóm giải pháp nhằm phát triển kinh tế có vốn FDI ở Việt Nam thông qua việc cải thiện thể chế chính sách.

7. Kết cấu của luận án:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Chương 2: Thực trạng xây dựng và hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI


1.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ TẦM QUAN TRỌNG

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Trước xu thế phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, sự vận động của các dòng vốn quốc tế giữa các nước ngày càng gia tăng. Xu hướng đó làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong mỗi nước. Ngày nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế được hình thành từ nguồn vốn đầu tư của nhà nước, nguồn vốn đầu tư của dân cư trong nước và nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài.

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế mà nguồn vốn của nó thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Việc tiếp cận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài xuất xứ từ lý luận của V.I.Lenin về xuất khẩu tư bản.

Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” [55], V.I.Lenin đã chỉ ra là, do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, ở các nước phát triển có lượng “tư bản thừa tương đối”, không tìm được nơi đầu tư có lợi. Trong khi đó ở các nước chậm phát triển, có nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác và nguồn lao động giá thấp, lại thiếu vốn đầu tư, hứa hẹn là nơi đầu tư thu nhiều lợi nhuận. Điều đó dẫn đến di chuyển vốn từ các nước phát triển sang các nước chậm phát triển. Hiện tượng đó được gọi là xuất khẩu tư bản. Như vậy, xuất khẩu tư bản là việc đưa tư bản ra nước ngoài để đầu tư và thu lợi nhuận. Việc xuất khẩu tư bản như thế hình thành nên kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại các quốc gia.

V.I.Lenin cũng đã phân chia các hình thức xuất khẩu tư bản thành xuất khẩu tư bản cho vay và xuất khẩu tư bản hoạt động. Xuất khẩu tư bản cho vay là


việc một nhà nước hay một nhà tư bản nước ngoài cho một nước khác vay tư bản để thu lợi tức. Còn xuất khẩu tư bản hoạt động là một nước hoặc một nhà tư bản nước ngoài mang vốn ra nước ngoài để xây dựng doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận. Hình thức xuất bản tư bản hoạt động như thế, ngày nay được gọi là kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, trong đó chủ đầu tư trực tiếp gồm có các pháp nhân, thể nhân mang quốc tịch nước ngoài.

- Đặc điểm kinh tế có vốn FDI: Từ phương pháp luận của Mác, để xem xét đặc điểm của kinh tế có vốn FDI chúng ta cần phân tích ba mối quan hệ là quan hệ về sở hữu, quan hệ về quản lý và quan hệ về phân phối.

Quan hệ sở hữu. Cũng như các khu vực kinh tế khác, một trong những nội dung của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu các nguồn vốn. Trong khu vực có vốn FDI là sở hữu vốn thuộc về nhà FDI. Khi nói về kinh tế có vốn FDI, trước hết người ta thường nhấn mạnh là nhà đầu tư là người có vốn, có tư bản. Chính điều đó đã hấp dẫn việc thu hút FDI.

Rõ ràng là, muốn đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư trước hết phải có vốn, có tư bản. Có vốn, có tư bản, nhà đầu tư mới có thể xây dựng được nhà máy, mua sắm trang thiết bị, thuê công nhân tại các nước sở tại để tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu thêm, vốn của nhà đầu tư bao gồm những nguồn nào? Hiện nay có hai quan niệm khác nhau về vấn đề này (1) vốn của nhà đầu tư là vốn riêng có của họ; bởi lẽ, mục tiêu của FDI, trước hết là thu hút các nguồn vốn đầu tư mà nước nhận đầu tư đang còn khan hiếm; (2) vốn của nhà đầu tư bao gồm vốn riêng có của nhà đầu tư và vốn mà nhà đầu tư đi vay, kể cả vay của dân cư nước nhận đầu tư.

Chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ hai phù hợp hơn trong điều kiện hiện nay.

Quan hệ quản lý. Dù nhà FDI hoạt động bằng nguồn vốn tự có hay nguồn vốn đi vay, về mặt pháp lý họ phải chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn


vốn của mình. Chính vì thế, các nhà FDI là người chủ hoặc đóng vai trò quan trọng trong công tác điều hành, quản lý doanh nghiệp.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tách quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn là việc tách rời chủ sở hữu doanh nghiệp với chủ kinh doanh. Ngày càng có nhiều nhà đầu tư thuê giám đốc điều hành hoạt động của doanh nghiệp của mình tại các nước nhận đầu tư. Thông qua hoạt động đó, nhà kinh doanh vẫn bảo tồn được quyền sở hữu vốn của họ, đồng thời, những giám đốc điều hành, đội ngũ cán bộ quản lý tiếp thu được kỹ năng điều hành sản xuất kinh doanh hiện đại.

Quan hệ phân phối. Phân phối trong kinh tế có vốn FDI thực hiện theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, đó là phân phối dựa vào sở hữu nguồn lực. Theo nguyên tắc này, nhà đầu tư có vốn họ thu được lợi nhuận, nhà nước là chủ sở hữu đất đai, thì thu được địa tô, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI nhận được tiền công.

1.1.2. Chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

1.1.2.1. Khái niệm chính sách

Khoa học nghiên cứu về chính sách chưa có một định nghĩa hay khái niệm thống nhất về "chính sách", còn đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995) chính sách được hiểu là "những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...Muốn định ra chính sách đúng phải vừa căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu chung, phương hướng được xác định trong đường lối nhiệm vụ chung vừa linh hoạt vận dụng trong điều kiện cụ thể [54.Tr.475].

Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau: chính sách của chính phủ, chính sách của chính quyền địa phương, chính sách


của một bộ, chính sách của một tổ chức đoàn thể, chính sách của một doanh nghiệp… Tuy nhiên, trên thực tế, thuật ngữ “chính sách” chủ yếu được dùng với ý nghĩa là do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành. Những chính sách này có mục đích nhằm giải quyết các vấn đề có tính chất cộng đồng và thường được gọi là chính sách công.

Chính sách công là một chuỗi các quyết định hoạt động của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định.

Chính sách Kinh tế - xã hội theo nghĩa rộng. Theo Giáo trình Chính sách Kinh tế - xã hội của Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng "Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước’’.[46.Tr 21].

Chính sách Kinh tế - xã hội theo nghĩa hẹp có nhiều khái niệm khác nhau. Giáo trình Chính sách Kinh tế - xã hội của Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng "Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước" [46.Tr 25].

Từ một số điểm chung của các khái niệm trên và thực tiễn cho rằng, chính sách kinh tế - xã hội (hay còn gọi là chính sách công) hiểu theo nghĩa rộng đó là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước. Theo nghĩa hẹp, chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, với công cụ, phương tiện, biện pháp, kỹ thuật mà nhà nước sử dụng để tác động tới các đối tượng, các khách thể quản lý, theo đuổi những mục tiêu đã định trong một khoảng thời gian xác định. Như vậy, chính sách bao hàm năm yếu tố cấu thành: (1) chủ thể chính sách với hệ quan điểm chỉ đạo; (2) mục tiêu của chính sách; (3) các nguồn lực thực thi chính sách; (4) môi trường của chính sách và (5) các đối tượng liên quan đến chính sách.


1.1.2.2. Khái niệm chính sách đối với kinh tế có vốn FDI

Cũng như khái niệm “chính sách” nói chung, đến nay chưa có một định nghĩa hay khái niệm chuẩn mực nào về chính sách kinh tế có vốn FDI. Nội hàm của khái niệm “chính sách kinh tế có vốn FDI” hẹp hơn khái niệm “chính sách kinh tế - xã hội” vì chính sách kinh tế có vốn FDI chỉ là một bộ phận trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Trên thực tế, không có một văn bản pháp lý nào phản ảnh trọn vẹn hay được coi là toàn bộ chính sách kinh tế có vốn FDI của một quốc gia. Chính sách kinh tế có vốn FDI bao gồm cả một hệ thống các chính sách, biện pháp, công cụ mà Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động của lĩnh vực FDI. Chính sách kinh tế có vốn FDI mang tính chất tổng hợp và có quan hệ hữu cơ với nhiều chính sách về nhiều lĩnh vực khác nhau, như: Chính sách đảm bảo đầu tư, chính sách thuế, chính sách lao động, chính sách xuất nhập cảnh, chính sách ngoại thương, chính sách đối ngoại... Phạm vi tác động ảnh hưởng của chính sách kinh tế có vốn FDI cả trong phạm vi quốc gia, và cả các tổ chức, cá nhân người nước ngoài.

Trên cơ sở quan niệm lý thuyết phổ biến về chính sách kinh tế - xã hội, đặc điểm khách thể tác động của chính sách, các yếu tố liên quan đến hành động đầu tư... có thể hiểu: Chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là tổng thể các tư tưởng, quan điểm, các biện pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong một thời gian nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1.1.2.3. Đặc điểm của chính sách đối với kinh tế có vốn FDI

Thứ nhất, về mục tiêu của chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Chính sách đối với kinh tế có vốn FDI là sự can thiệp của nhà nước nhằm hướng tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 28/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí