người sử dụng lao động, nhà đầu tư nước ngoài tuân thủ, tôn trọng văn hóa ứng xử, tập quán của người Việt Nam để từ đó giáo dục, tổ chức người lao động làm việc có kỷ luật, năng suất và đảm bảo công bằng.
3.2.1.4. Hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn FDI nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội
Hiệu quả của kinh tế có vốn FDI, có nhiều vấn đề cần bàn liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, khoa học công nghệ,... Hiệu quả của chính sách đối với chủ thể kinh tế này phải có tầm nhìn cả trong ngắn hạn và trong dài hạn cần quan tâm những nội dung cơ bản như sau:
- Về kinh tế. Thu hút FDI phải đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Kinh tế tăng về quy mô, nâng cao chất lượng, đóng góp ngày càng nhiều hơn trong việc tạo ra GDP. Đặc biệt, FDI phải nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Hiệu quả của đầu tư nước ngoài còn phải thể hiện tác động trực tiếp đến việc cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp. Đồng thời, kinh tế có vốn FDI phải đóng góp vào sự gia tăng giá trị của nền kinh tế.
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiệu quả của đầu tư nước ngoài phải góp phần tích cực chuyển dịch, hoàn thiện cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghĩa là, tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp giảm dần; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng dần. Đồng thời FDI phải trở thành cầu nối quan trọng giữa nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ và tạo điều kiện để Việt Nam chủ động hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới.
- Về công nghệ kỹ thuật. Đầu tư nước ngoài phải đổi mới công nghệ bằng việc nhập khẩu các thiết bị và công nghệ mới để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý; phát triển các ngành công nghiệp chủ
đạo có tác dụng lan toả thúc đẩy phát triển các ngành khác; sản phẩm phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do vậy, hiệu quả FDI phải từng bước đổi mới công nghệ trong nước, thay thế công nghệ kỹ thuật lạc hậu bằng công nghệ cao, công nghệ sạch, hiện đại.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhận Thức Về Chính Sách Đối Với Kinh Tế Có Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Còn Thiếu Nhất Quán
- Dự Báo Nhu Cầu Vốn Đầu Tư Cho Phát Triển Kinh Tế Việt Nam Những Năm Tới
- Hoàn Thiện Chính Sách Đối Với Kinh Tế Có Vốn Fdi Giải Quyết Thoả Đáng Mối Quan Hệ Lợi Ích: Nhà Đầu Tư Nước Ngoài - Người Lao Động - Nhà Nước
- Phương Hướng Hoàn Thiện Chính Sách Lao Động, Thu Nhập
- Sửa Đổi Luật Đầu Tư Cho Phù Hợp Với Cam Kết Gia Nhập Wto Và Điều Kiện Toàn Cầu Hoá, Hội Nhập Quốc Tế
- Hướng Vào Mục Tiêu Tăng Trưởng Và Phát Triển Bền Vững
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
- Về xã hội. Chính sách đối với kinh tế có vốn FDI phải đi đôi với phát triển kinh tế và phải đảm bảo ổn định chính trị - xã hội. Nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, gia tăng số lao động có việc làm và tạo thêm việc làm cho người lao động, phân công lại lao động xã hội theo hướng tiến bộ; tăng thu nhập cải thiện, nâng cao đời sống người lao động... từ đó FDI phải tác động tích cực trong việc xoá đói, giảm nghèo.
- Về môi trường. Hiện nay đang có 2 quan điểm trong thu hút FDI vào Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư; quan điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc chúng ta phải tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, ưu đãi đối với những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các tỉnh, thành phố đều tập trung mọi cố gắng thu hút FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm gì, vì vậy chưa thực sự quan tâm đến bảo vệ môi trường sinh thái.
Tóm lại, chính sách đối với kinh tế có vốn FDI cần phải gắn với hiệu quả kinh tế - xã hội xét trên phạm vi địa phương, ngành, vùng lãnh thổ và cả đất nước. Các dự án FDI phải thể hiện được tính hiệu quả của nó ở các tiêu chuẩn: Dự án đầu tư phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với quy hoạch chung; tạo giá trị sản lượng hàng hóa tương đối lớn, nhất là hàng xuất khẩu có chất lượng, gắn với công nghệ hiện đại; tạo nhiều việc làm và nâng cao mức sống của người lao động; thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành nghề trong nước có liên quan đến dự án FDI; có đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước và góp phần vào sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế đất nước nói chung.
3.2.1.5. Hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn FDI tiến hành đồng bộ trong hệ thống các chính sách, đồng thời với hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế
Tư duy lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được thực tiễn từng bước được bổ sung hoàn thiện trong quá trình hoạch định chính sách nói chung và chính sách đối với kinh tế có vốn FDI nói riêng. Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong gần 25 năm đổi mới đã khẳng định điều đó. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, các thị trường chưa đồng bộ và chưa hoàn chỉnh, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về tính định hướng XHCN đối với kinh tế thị trường còn phải làm sáng tỏ. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách đối với kinh tế có vốn FDI.
Thực tiễn cho thấy, đến nay chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý thuyết vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của cơ chế kinh tế, nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường cũng như của định hướng XHCN. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc biệt về cấu trúc, quan hệ giữa các yếu tố, bộ phận hợp thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, vẫn chậm làm sáng tỏ về mặt lý luận mối quan hệ giữa hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự kết hợp chúng một cách hữu cơ để tạo thành một phương thức mới giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế có vốn FDI ở Việt Nam.
Hoàn thiện môi trường thể chế, trước hết là môi trường pháp lý về FDI, để thị trường hoạt động trong một hành lang pháp lý thông thoáng và minh bạch là nhiệm vụ cấp bách thúc đẩy sự phát triển các loại thị trường ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
3.2.2. Phương hướng hoàn thiện chính sách đối với kinh tế có vốn FDI
3.2.2.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng
Trong điều kiện nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, nhưng từ trước đến nay ngân sách nhà nước hàng năm vẫn có sự phân phối theo hướng chia đều cho các vùng. Do vốn đầu tư bị dàn trải nên đã không mang lại hiệu quả. Bằng chứng là nhiều công trình cơ sở hạ tầng không được đầu tư đồng bộ, quy mô không đáp ứng nhu cầu; nhiều công trình bị dở dang không thể hoàn thành trong thời gian dài do thiếu vốn đầu tư. Cơ sở hạ tầng kém là yếu tố bất lợi trong thu hút FDI. Tình trạng thiếu điện, thiếu đường giao thông vẫn phổ biến gây ra sự e ngại đối với các nhà đầu tư đang định rót vốn vào Việt Nam. Đây là nút thắt cổ chai về vấn đề hạ tầng cơ sở làm giảm sức hấp dẫn đối với FDI ở Việt Nam.
Vì vậy, Nhà nước cần có quy hoạch lựa chọn các địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý, lao động, tài nguyên thiên nhiên để tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp năng lượng, nước, thông tin, các công trình phúc lợi xã hội để cung cấp điều kiện hạ tầng chất lượng cao nhằm thu hút các nhà FDI như một số tỉnh nằm gần Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh: Hưng Yên, Hà Tây, Bắc Ninh, Long An, Đồng Nai; những tỉnh có cảng biển, cảng sông như Hải Phòng, Quảng Ninh, v.v... Đồng thời thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp giống như chúng ta đã làm đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
Để thu hút các nhà FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, cần thực hiện kết hợp các chính sách ưu đãi về tài chính và đầu tư phát triển về hạ tầng để khuyến khích các nhà đầu tư. Cụ thể:
- Miễn thuế nhập khẩu, thuế VAT đối với máy móc thiết bị được sử dụng để nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới. Hỗ trợ về tài chính như cho vay với lãi suất thấp, thời gian dài đối với các dự án nghiên cứu phát triển công nghệ mới
(Các biện pháp hỗ trợ này phải đảm bảo không mâu thuẫn với các cam kết khi gia nhập WTO).
- Nhanh chóng xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao như khu công nghệ cao Hoà Lạc, khu phần mềm Quang Trung ở Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tạo hạ tầng tốt thu hút các doanh nghiệp nước ngoài chuyên về nghiên cứu và phát triển công nghệ.
- Ban hành chính sách đầu tư xây dựng cở sở hạ tầng cho các phòng nghiên cứu khoa học, công nghệ ở các trường Đại học, Trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ từ đó thu hút được các Quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài tham gia đầu tư.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng có thể từ nhiều nguồn vốn: Ngân sách nhà nước, vốn ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế, khuyến khích vốn tư nhân đầu tư và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án BOT, BT để phát triển hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại theo quy hoạch thống nhất, đáp ứng kịp thời với sự phát triển kinh tế - xã hội, kể cả trước mắt và lâu dài. Do vậy, Nhà nước cần giữ vai trò chủ yếu và chủ động hơn trong xây dựng kết cấu hạ tầng, bởi lẽ đầu tư vào cơ sở hạ tầng hết sức tốn kém, thời gian thu hồi vốn chậm. Trước mắt, cần đặc biệt coi trọng việc nâng cấp và HĐH mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước sạch, sân bay, cảng biển, xử lý chất thải và vệ sinh môi trường...
Cần tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng của ba vùng kinh tế trọng điểm tạo đà cho tăng trưởng nhanh nền kinh tế. Trong thực tế, những địa bàn này đang thu hút được nhiều dự án FDI nhất trong cả nước. Việc tập trung cho phát triển hạ tầng tại ba vùng này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến thu hút FDI và có tác động lan tỏa đến sự phát triển kinh tế của các vùng khác.
Trong phát triển cơ sở hạ tầng, cần xây dựng những quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể và đủ sức hấp dẫn đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các
địa bàn trọng điểm để kích thích các nhà đầu tư thực hiện, góp phần giảm nhẹ gánh nặng đầu tư cho ngân sách. Đồng thời, khuyến khích đầu tư xây dựng KCN, khu chế xuất và thành lập các đặc khu kinh tế tại các địa bàn thích hợp. Do vậy, để tạo điều kiện thu hút đầu tư vào các KCN, cần thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp trong các KCN, bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật đồng bộ với cơ sở hạ tầng xã hội (trường học, bệnh viện, cơ sở thương mại dịch vụ…).
Cải thiện hệ thống dịch vụ hiện tại và phát triển một hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao, đặc biệt là các dịch vụ hải quan, tài chính - ngân hàng, thương mại… Chú trọng tăng cường mạng lưới tư vấn về đầu tư, xuất nhập khẩu, giải quyết các tranh chấp trong đầu tư, thương mại…
Một vấn đề quan trọng khác để nâng cao vai trò của FDI đối với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta những năm tới là trong hoàn thiện chính sách đối với FDI, chúng ta cần chú ý tới chính sách khuyến khích ngành đầu tư và cải thiện cơ cấu kinh tế vùng. Hiện nay, hầu như số dự án FDI đầu tư vào ngành nông nghiệp và khu vực vùng trung du, miền núi còn rất hạn chế. Vì thế trong hoàn thiện chính sách những năm tới cần nghiên cứu để khuyến khích các nhà đầu tư FDI hướng nguồn lực vào các ngành và các lĩnh vực còn mất cân đối hiện nay.
3.2.2.2. Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ trong hoạt động FDI
Đồng thời về môi trường pháp lý, cần tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư. Trong thời gian tới, để ưu đãi đầu tư có hiệu quả, về nguyên tắc nên tuân thủ các yêu cầu sau: Sử dụng các ưu đãi một cách chọn lọc và thận trọng trong việc đưa ra các ưu đãi cụ thể sát với điều kiện thực tế; ưu đãi phải được thực hiện đơn giản, dễ dàng; các ưu đãi phải được ban hành rõ ràng, cụ thể và công bố công khai để tránh tình trạng áp dụng tùy tiện; những ưu đãi đầu tư phải dựa trên cơ sở kết quả hoạt động của dự án đầu
tư mà không dựa trên kế hoạch hay những đề xuất trong kế hoạch của các nhà đầu tư. Dựa trên các nguyên tắc chung này, Nhà nước cần có sự đổi mới chính sách ưu đãi trong hoạt động đầu tư ở nước ta hiện nay theo hướng:
- Về chính sách thuế
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp: Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất vào KCN của Việt Nam cần cho phép họ được hưởng mức thuế thu nhập 10% và doanh nghiệp dịch vụ là 15% cho suốt thời gian dự án. Đây là mức thuế cạnh tranh được với các đặc khu kinh tế tại Trung Quốc, Philippin, Miama.
+ Thuế GTGT: Thuế suất VAT 0% trong thời hạn 5 năm cho các doanh nghiệp đầu tư vào KCN Việt Nam kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư. Trong thời kỳ 5 năm đầu, các doanh nghiệp còn bỡ ngỡ và gặp khó khăn trong việc hoạt động, sản xuất kinh doanh tại Việt Nam và đây là thời gian đào tạo công nhân và thời gian lỗ của doanh nghiệp. Ưu đãi này sẽ giúp các doanh nghiệp giảm lỗ và có thể đứng vững, vượt qua thời kỳ đầu khó khăn, đồng thời thời hạn 5 năm sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư rút ngắn thời gian xây dựng nhà máy, nhanh chóng đi vào sản xuất.
Thuế VAT 0% (mức hiện hành 5%) cho tiền thuê lại đất và tiền thuê nhà xưởng, phí xử lý nước thải, vệ sinh công nghiệp, phí quản lý, phí bảo dưỡng, chuyển giao công nghệ, xây lắp nhà máy, thiết bị. Như đã trình bày, các KCN đã từ bỏ lợi nhuận và chấp nhận lỗ thông qua việc giá thuê lại đất (đã giảm hơn 50% so với luận chứng kinh tế và 30% so với các KCN khác) và áp dụng các cơ chế linh hoạt trong thanh toán đối với các nhà đầu tư nhằm thúc đẩy thu hút FDI. Thuế suất VAT 0% sẽ không làm tăng chi phí đối với các nhà đầu tư và sẽ giúp các doanh nghiệp đỡ bị lỗ trong khi phải đưa ra giá cho thuê và dịch vụ, phí… thấp hơn cả KCN khác ở Việt Nam và trong khu vực. Ưu đãi nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách chi phí sản xuất giữa nhà đầu tư trong KCN và ngoài KCN (vì các nhà đầu tư ngoài KCN không chịu thuế VAT khi thuê đất từ Chính phủ, không phải trả các loại phí xử lý nước thải, vệ sinh công nghiệp, phí quản lý, phí
bảo dưỡng hạ tầng như trong KCN); chuyển giao công nghệ, xây lắp nhà máy và thiết bị.
+ Thuế thu nhập với người thu nhập cao: Thuế suất tối đa 30% (mức hiện nay là 50%) cho thu nhập cá nhân phát sinh tại Việt Nam đối với người nước ngoài giữ các chức vụ Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng, Kỹ sư trưởng làm việc dài hạn tại doanh nghiệp trong các KCN Bắc Ninh. Hiện nay thuế suất thu nhập tại Việt Nam là 50% trở nên quá cao so với các nước ở Châu Á (mức trung bình là 30%). Hơn thế, thuế thu nhập tại Việt Nam lại đánh vào thu nhập trên toàn thế giới của người nước ngoài trong khi đó hầu hết các nước chỉ đánh vào phần thu nhập phát sinh tại các nước đó, mức đánh thuế cao với môi trường đầu tư rủi ro cao đã hạn chế sự chi viện từ Công ty mẹ, làm tăng chi phí đầu tư tại Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước khác, ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư.
Thuế suất thu nhập cá nhân tối đa 10% (mức tối đa hiện nay là 30%) cho thu nhập cá nhân phát sinh tại Việt Nam cho các chuyên gia làm công tác đào tạo, chuyển giao công nghệ theo hợp đồng đào tạo hoặc chuyển giao công nghệ ký với doanh nghiệp trong các KCN và thuế suất VAT 0% cho chuyển giao công nghệ. Như đã đề cập trong phần trên, một trong những mục tiêu chính trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam là khuyến khích chuyển giao công nghệ cao. Theo Luật Thuế hiện hành đối với người nước ngoài có thời gian làm việc tại Việt Nam dưới 183 ngày sẽ chịu thuế suất thu nhập cá nhân là 10%. Để khuyến khích việc chuyển giao công nghệ cao vào Việt Nam cần có chính sách thuế ưu đãi với các chuyên gia làm công tác đào tạo, chuyển giao công nghệ và thuế suất VAT 0% đối với các thiết bị phục vụ chuyển giao công nghệ.
+ Thuế nhập khẩu: Cho giảm thuế nhập khẩu đến 0% và miễn các loại phí của lượng xăng dầu, nhiên liệu phục vụ cho việc san lấp mặt bằng các KCN Việt Nam. Ưu đãi này sẽ giúp các KCN có thể giảm chi phí cho các nhà đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh thu hút đầu tư vào KCN.