Tính Tất Yếu Của Cph Ở Việt Nam Trong Quá Trình Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế.


quản lý DNNN. Điều này có nghĩa là giám đốc, các nhân viên quản lý không dễ dàng thực hiện hành vi vụ lợi như khi DNNN đang hoàn toàn thuộc sở hữu của Nhà nước.

3 Tính tất yếu của CPH ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ nhất, Vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước và hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, coi trọng hơn vai trò điều tiết của cơ chế thị trường.

Thứ hai, Xuất phát từ mục tiêu kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiên kinh tế thị trường phải thu được nhiều lợi nhuận. Những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, muốn chiếm ưu thế để tồn tại và phát triển, cạnh tranh trong cơ chế thị trường cũng như trong điều kiện mở cửa nền kinh tế phải cùng nhau góp vốn tạo ra doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Vì với quy mô lớn hơn, doanh nghiệp mới có ưu thế để tiến hành đổi mới quy trình công nghệ, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất và quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, bảo đảm kinh doanh có lãi trong cơ chế thị trường và điều kiện cạnh tranh mở cửa. Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn, muốn hạn chế được rủi ro trong kinh doanh cũng phải mua cổ phần của các doanh nghiệp hoặc nhận vốn góp cổ phần của các doanh nghiệp khác. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp được san sẻ bớt sự rủi ro trong kinh doanh, nhằm đảm bảo có được lợi nhuận tối thiểu ngang bằng lợi nhuận bình quân trong ngành. Do đó hạn chế được những bất lợi trong quá trình cạnh tranh.

Thứ ba, Sự phát triển tràn lan của các DNNN một cách quá mức nhằm tạo ra một thực lực kinh tế mạnh mẽ làm công cụ điều tiết vĩ mô. Các DNNN được chú ý điều tiết phát triển không chỉ ở các lĩnh vực, các ngành then chốt của nền kinh tế mà còn ở các ngành khác mà lẽ ra Nhà nước không cần nắm


giữ. Sự phát triển tràn lan đó đã làm cho tình hình thị trường xấu đi và ảnh hưởng tới năng suất chung của sản xuất xã hội. Yêu cầu của việc lợi dụng các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu, của việc tạo lập môi trường cạnh tranh hiệu quả đòi hỏi phải sắp xếp lại cơ cấu hệ thống DNNN.

Thứ tư, Trong điều kiện nền kinh tế xã hội phát triển, chính nền kinh tế thị trường đã làm bộc lộ sự hoạt động kém hiệu quả của nhiều DNNN, làm cho các doanh nghiệp này ngày càng trở thành gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân.

Thứ năm, Sự thay đổi quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Cùng với tư tưởng tự do kinh tế người ta buộc phải xem xét lại vai trò của Nhà nước theo phương châm thị trường nhiều hơn, tự do kinh doanh nhiều hơn. Thêm vào đó, cùng với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Nhà nước cần quản lý doanh nghiệp bằng một cơ chế phù hợp hơn. Từ đó đòi hỏi phải kiện toàn, sắp xếp lại cơ cấu khu vực nền kinh tế Nhà nước theo xu hướng giảm dần cơ chế “trói buộc” của Nhà nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Xét từ hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh, các DNNN nói chung hoạt động kém hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính xuất phát từ sự kém hiệu quả đó Nhà nước thường phải tài trợ, bao cấp thông qua cấp vốn, trợ giá, giảm nộp ngân sách…để duy trì hoạt động của DNNN, duy trì sở hữu Nhà nước.

Cuối cùng, Xuất phát từ những ưu điểm của công ty cổ phần so với DNNN, những mặt ưu điểm này quyết định đến tính hiệu quả trong quản lý và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng và giải pháp - 5

Với những lý do trên, quá trình CPH DNNN ở nước ta đã được thực hiện như một tất yếu khách quan trong hơn 15 năm qua.

Nội dung cơ bản chủ trương CPH của Nhà nước ta.

Nghị quyết Hội nghị TW Đảng lần thứ 3 (khoá IX) ra đời rất kịp thời với nội dung đúng đắn, thể hiện sự đúng đắn sáng suốt, kiên định đường lối


đổi mới theo định hướng XHCN, có tính lý luận sâu sắc phù hợp quan điểm của CN Marx – Lenin - phù hợp quy luật kinh tế và thực tiễn của cách mạng Việt Nam và mục tiêu: “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.

Nghị quyết TW3 ra đời một lần nước khẳng định vị trí của DNNN trong nền kinh tế, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế và lực của đất nước làm cho DNNN chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần đưa đất nước ta hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nghị quyết đồng thời cũng chỉ ra rõ những hạn chế nhiều mặt của DNNN. Đặt ra yêu cầu phải sắp xếp, chuyển đổi cơ cấu sở hữu, nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp, với một quyết tâm rất cao và bước đi thích hợp.

Trong đó phải áp dụng nhiều giải pháp: Vừa cơ cấu lại, sắp xếp lại DNNN, và cải cách quản lý và xây dựng lực lượng, tăng thêm năng lực sản xuất của doanh nghiệp về lao động, vốn, thiết bị, khoa học và công nghệ, trình độ và năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo. Khơi dậy mọi tiềm năng (lao động, vốn, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên...). Để phát triển bền vững làm cho kinh tế Nhà nước có được vị trí và sức mạnh quyết định, có vai trò định hướng.

Muốn vậy, để cơ cấu lại DNNN tập trung vào các ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, then chốt, địa bàn quan trọng, sản phẩm thiết yếu... Nhà nước cần nắm giữ tư tưởng chỉ đạo phải kiên trì nguyên tắc phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ vững, ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước. Phấn đấu và mục tiêu chính và định hướng XHCN, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Nghị quyết chỉ rõ phải thực hiện bằng được việc xã hội hoá, lao động sản xuất. Đa dạng hoá loại hình kinh doanh, tạo ra nhiều sản phẩm xã hội.


Mọi tổ chức cá nhân được phép kinh doanh những gì pháp luật không cấm. Huy động mọi thành phần kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất xã hội. Trong một mặt bằng, khuôn khổ pháp lý chung. Nhưng vẫn pảhi đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng vóc tương xứng với vai trò chủ đạo của DNNN.

Đảng và Nhà nước ta coi trọng yếu tố con người. Mang tầm vóc trí tuệ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, với hàng nghìn năm lịch sử, do vậy đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm đem lại hiệu quả kinh tế chung cho doanh nghiệp, cho đất nước và cho người lao động. Thành quả của những năm đổi mới, do đảng ta lãnh đạo đã chứng minh. Ngoài mục đích của dân tộc, Đảng ta không còn mục đích nào khác.

Đổi mới, sắp xếp lại DNNN là để phát huy quyền làm chủ của doanh nghiệp lao động. Nâng cao quyền và trách nhiệm, trình tự chủ của doanh nghiệp, đồng thời phân định rõ quyền đại diện chủ sở hữu tài sản Nhà nước trong doanh nghiệp. Đồng thời làm rõ hai chức năng quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp SXKD.

Cơ chế tự chịu trách nhiệm về SKXD cũng được làm rõ doanh nghiệp được tự huy động vốn và có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trụ vụ SXKD trên nguyên tắc có hoàn trả. Bỏ cơ chế xin và cho, chuyển theo hướng đầu tư tài chính vào doanh nghiệp, không lẫn lộn chức năng quản lý chính với chức năng kinh tế.

Nghị quyết TW 3 là cơ sở, chỉ được động lực cho DNNN phát triển. Trong đó CPH DNNN là giải pháp có tình lý luận và tiến triển để DNNN thực sự là chủ đạo trong nền kinh tế, tạo điều kiện để người lao động tham gia quản lý doanh nghiệp thu hút được nguồn vốn của các nhà đầu tư. Nghị quyết 64, Nghị quyết 41/CP cùng các chính sách kinh tế, tài chính khác đã cụ thể hoá quan điểm đó của Đảng, sắp xếp, đổi mới, cơ cấu lại DNNN là ý Đảng và lòng dân chúng ta không có quyền do dự, phải xốc tới và giành lấy thắng lợi.


III. Kinh nghiệm quốc tế về CPH.

1. Kinh nghiệm CPH ở các nước phát triển

Quá trình CPH diễn ra mạnh mẽ, sôi động ngay từ đầu thập kỷ 80 và bắt đầu từ Anh, sau đó lan rộng ra hầu hết các nước công nghiệp phát triển và đang phát triển như Pháp, Mỹ...

Tại những nước này, khu vực kinh tế quốc doanh được CPH và tư nhân hoá theo 4 hình thức chính sau:

- Cổ phần của DNNN được bán thông qua thị trường vốn cho mọi người có nguyện vọng mua.

- Khi gặp khó khăn về tài chính, doanh nghiệp cần bán đi một phần tài sản cho tư nhân và công ty tư nhân.

- Bán cổ phần cho công nhân viên trong DNNN.

- Bán xí nghiệp “ con” thuộc xí nghiệp “mẹ” hoặc bán từng bộ phận thuộc một ngành sản xuất chính. Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở Italia, Tây ban Nha, Pháp, thường là bán cho người nước ngoài. DNNN dùng số tiền đó mua cổ phần của công ty tư nhân chứng khoán.

2. CPH và tư nhân hoá các doanh nghiệp ở Đông Âu

Ở các nước Đông Âu khi quan hệ sản xuất XHCN bị phá vỡ, CPH và tư nhân hoá DNNN được đẩy mạnh và ngày càng sôi động đặc biệt là các nước Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungari, Đức, Ba Lan…

Các nước thực hiện bán doanh nghiệp cho tất cả các đối tượng không phân biệt người trong nước và người nước ngoài hoặc chuyển DNNN thành công ty trách nhiệm hữu hạn.

Một số chế độ ưu đãi dưới các hình thức:

- Ưu tiên bán doanh nghiệp cho người lao động hoặc người quản lý.

- Giảm giá bán cổ phần cho người lao động.

- Bán chịu có thời hạn.

- Được vay không tính lãi và trả góp trong một số năm để mua cổ phần.

- Được miễn thuế thu nhập nếu đầu tư qua thị trường chứng khoán.


- Phần sở hữu còn lại của Nhà nước được bán theo cơ chế đấu giá thanh toán tiền mặt hoặc đấu thầu đầu tư.

3. Quá trình CPH ở Trung Quốc

Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa (năm 1978), Trung Quốc đồng thời đã thực hiện những biện pháp cải cách hướng vào hoạt động của DNNN như: Mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất - kinh doanh, cổ phần hóa, xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại...

CPH DNNN ở Trung Quốc là một bộ phận của chương trình đa dạng hoá sở hữu ở Trung Quốc với những hỗ trợ sau:

- Giao quyền sử dụng đất có hạn định. Các doanh nghiệp phải nộp một khoản phí nhất định khi tiến hành CPH DNNN.

- Giúp các doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính thông qua việc cấp một phần vốn dự trữ cho các Ngân hàng để xoá một phần nợ không có khả năng thanh toán cho các doanh nghiệp gặp khó khăn; chuyển một phần nợ thành vốn góp cổ phần ở những doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu vốn.

- Phát hành cổ phiếu thông qua các công ty chứng khoán, các công ty tài chính ( đối với số cổ phiếu bán ra ngoài).

Cụ thể có đặc điểm như sau:

3.1 Xác định quan điểm CPH DNNN

Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác để tiến hành CPH DNNN; coi CPH một bộ phận DNNN là một phần hữu cơ trong tổng thể đổi mới DNNN, luôn khẳng định đây là một con đường tìm kiếm một cơ chế kinh doanh có hiệu quả, chứ không phải là tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau; đổi mới DNNN là khâu then chốt của cải cách kinh tế, coi tiền đề cải cách doanh nghiệp là xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường.

3.2 Xác định mục tiêu CPH

- Mở rộng hình thức sở hữu, tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế thị trường;

- Điều chỉnh lại vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động của DNNN;


- Định hướng năng lực hành chính của Nhà nước, giảm bớt tham nhũng và thói quen dựa dẫm vào Nhà nước, thay đổi mối quan hệ giữa những người quản lý hành chính với những người quản lý kinh tế;

- Thương mại hoá hành vi quản lý, thay đổi lực lượng lao động, nâng cao thu nhập;

- Tăng nguồn thu để trả nợ cho các mục đích khác, cân bằng ngân sách.

3.3 Xây dựng môi trường pháp lý cho quá trình CPH.

Trung Quốc rất chú trọng xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý cho quá trình CPH DNNN được thuận lợi, đồng thời với xây dựng và hoàn thiện toàn bộ môi trường cho sản xuất – kinh doanh nói chung. Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của DN. Lần lựợt “Luật phá sản doanh nghiêp”, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Các nguyên tắc tài chính doanh nghiệp”, “Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao dịch cổ phiếu, “Luật Lao động”, “Luật Công ty”, “Điều lệ quản lý đăng ký công ty”, “Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc”, “Luật ngân hàng thương nghiệp”, “Luật xí nghiệp hương trấn”..., đã được ban hành và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp. Trong đó, hai văn bản có tầm quan trọng đặc biệt là “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” và “Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của DNNN như: Cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng... Có thể thấy, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất-kinh doanh, góp phần tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp


về đúng với vòng quay của thị trường. Để cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày 23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những tiếp tục nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh.2

3.4 Lựa chọn hình thức và phương pháp CPH thích hợp để đạt được mục tiêu đã xác định.

CPH ở Trung Quốc được tiến hành dưới 3 hình thức:

- DNNN cùng các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm giữ cổ phiếu, hình thành công ty cổ phần. Hình thức này có lợi cho việc áp dụng hợp tác kinh tế theo chiều ngang, có lợi cho việc di chuyển hợp lý và kết hợp tối ưu các yếu tố sản xuất nên phát triển rất nhanh.

- Bán cổ phiếu cho người lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Hình thức này phát huy tốt vai trò làm chủ của người lao động, nhưng cũng nảy sinh mâu thuẫn giữa thu nhập trước mắt của họ với sự phát triển lâu dài của doạnh nghiệp.

- CPH DNNN bằng cách phát hành công khai cổ phiếu ra xã hội. Trong đó, có doanh nghiệp trực tiếp phát hành cổ phiếu trên thị trường để tập trung vốn; có doanh nghiệp phát hành qua hệ thống ngân hàng.

Trung Quốc tiến hành CPH DNNN theo thứ tự doanh nghiệp có quy mô nhỏ trước, quy mô vừa và lớn sau, gắn với hình thành tập đoàn công ty cổ phần. Theo quan điểm của Trung Quốc việc CPH các doanh nghiệp nhỏ rất dễ dàng vì quy mô, hoạt động cũng như dễ thống nhất trong nhận thức. Vả lại, CPH DNNN là một công việc mới mẻ, CPH ngay các doanh nghiệp lớn e không đủ kinh nghiệm cần thiết. Tiến hành CPH các doanh nghiệp nhỏ làm bài học kinh nghiệm để CPH các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Hiện


2 theo http://irv.moi.gov.vn/sodauthang/quocte/2006/9/14899.ttvn trang báo điện tử “Công nghiệp”.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/04/2022