(1) Phát triển hiệu quả thị trường ngoại hối
Để phát triển hiệu quả thị trường ngoại hối cần phát triển và hoàn thiện thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng.
Mở rộng thị trường ngoại tệ để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán đổi để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ có thể phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để Nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của NHNN khi cần thiết. Cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
Tuy nhiên, để đảm bảo thị trường ngoại hối phát triển ổn định, vững chắc, hướng đến một thị trường ngoại hối hiệu quả, hiện đại trong tương lai còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở hạ tầng thông tin; khả năng dự báo, phân tích của NHNN; niềm tin của thị trường vào chính sách, vào giá trị đồng Việt Nam; sự hiện đại hóa các công cụ giao dịch; sự phối hợp đồng bộ, linh hoạt của chính sách tỷ giá, chính sách quản lý ngoại hối với các chính sách khác; hay điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi.
(2) Thiết lập các hệ thống quản lý rủi ro ngoại hối phù hợp
Thị trường ngoại hối phát triển theo chiều sâu đòi hỏi hệ thống quản lý rủi ro tốt hơn và hệ thống các TCTD lành mạnh. NHNN cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản trị và giám sát rủi ro liên quan đến hoạt động ngoại hối nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. Hệ thống quản trị và giám sát liên quan đến rủi ro ngoại hối tốt có thể hạn chế tác động tiêu cực của các khủng hoảng tài chính. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh ngoại hối với những quy định đảm bảo an toàn là yếu tố cần thiết để quản lý rủi ro ngoại hối mà vẫn hạn chế được việc lạm dụng các sản phẩm này cho hoạt động đầu cơ.
Bên cạnh đó, NHNN cần tăng cường kiểm tra, có chế tài xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm trong hoạt động cung ứng và kinh doanh ngoại hối đặc biệt là hoạt động mua bán ngoại tệ, việc niêm yết giá cả hàng hóa và dịch vụ bằng USD; Tăng cường hơn nữa khâu thanh tra, kiểm soát phối hợp liên ngành, đặc biệt là giữa Sở công thương, Công an, Quản lý thị trường với ngành ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và triển khai các công cụ, mô hình giám sát rủi ro thị trường, rủi ro tỷ giá và rủi ro thanh khoản ngoại tệ; áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến để thực hiện giám sát các loại rủi ro này. Quy trình giám sát cần phải đảm bảo các ngân hàng phải thiết lập khuôn khổ quản trị rủi ro độc lập và thực thi nó một cách đầy đủ, có hiệu quả.
Đối với các tổ thức tín dụng (TCTD) được phép kinh doanh ngoại hối cần: i) Nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của các TCTD. Để nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối đòi hỏi các TCTD phải có sự chuyển biến căn bản và toàn diện về năng lực tài chính, quy mô tổ chức kinh doanh, công nghệ và nhân lực; ii) Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối vẫn thiếu hụt trầm trọng trong bối cảnh nguồn cung nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở Việt Nam không đáp ứng đủ và dự báo sẽ tiếp tục thiếu hụt trong thời gian tới trong bối cảnh kinh tế số, ngân hàng số, Fintech…phát triển mạnh. Do vậy, phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.
Có thể bạn quan tâm!
- Can Thiệp Trên Thị Trường Ngoại Hối Của Việt Nam, 2016-2020
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế Trong Cơ Chế Điều Hành Tỷ Giá Hối Đoái
- Bối Cảnh Kinh Tế Và Định Hướng Điều Hành Cơ Chế Tỷ Giá Hối Đoái Của Việt Nam
- Đối Với Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
- Frankel, Jeffrey, (1999), ―No Single Currency Regime Is Right For All Countries Or At All Times” , No 7338, Nber Working Papers, National Bureau Of Economic Research, Inc
- Các Công Cụ Giao Dịch Trên Thị Trường Ngoại Hối
Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.
Đối với các tổ chức khác: Thị trường ngoại hối là thị trường có tính chuyên môn, kỹ năng chuyên nghiệp cao, đòi hỏi các chủ thể tham gia cần phải có kiến thức đầy đủ về các công cụ giao dịch và rủi ro ngoại hối. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp, tổ chức tín dụng ở Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến quản trị rủi ro ngoại hối, đặc biệt là bảo hiểm rủi ro ngoại hối thông qua các công cụ phái sinh ngoại hối do tâm lý ỷ lại vào sự bảo đảm của Nhà nước về mức độ biến động TGHĐ, do vậy, cần tăng cường văn hóa quản trị rủi ro trong từng doanh nghiệp, trong từng tổ chức tín dụng.
(3) Các biện pháp can thiệp cần đa dạng và nhất quán
* Gia tăng dự trữ ngoại hối - tấm đệm quan trọng để can thiệp vào thị trường ngoại hối
Lý thuyết ―Bộ ba bất khả thi‖ mở rộng có đề cập đến vai trò quan trọng của dự trữ ngoại hối (DTNH) với các nước đang phát triển. Dự trữ ngoại hối gia tăng giúp chính phủ các nước đang phát triển đối phó với dòng vốn mang tính đầu cơ. Dòng vốn đầu cơ rất dễ đảo chiều, vì vậy, DTNH như một tấm đệm can thiệp vào thị trường ngoại hối (TTNH) để đề phòng rủi ro. Ngoài ra, DTNH giúp có thể can thiệp trực tiếp vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường nhằm kiểm soát TGHĐ theo mục tiêu đề ra. Để tăng quỹ DTNH cần áp dụng những chính sách sau:
Thứ nhất, cải thiện cán cân thương mại và kiểm soát cán cân vãng lai. Cán cân thương mại càng thặng dư thì khả năng tích luỹ ngoại hối càng cao. Do vậy, cần có
một cơ chế đồng bộ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng quan hệ thương mại với nước ngoài để qua đó thúc đẩy thương mại quốc tế. Đồng thời, NHNN cần thường xuyên kiểm soát được sự biến động của cán cân vãng lai làm cơ sở cho các quyết định dự trữ, cũng như can thiệp trên thị trường.
Thứ hai, thu hút nguồn FDI vào Việt Nam thời gian qua có sự gia tăng đáng kể. Nhưng trên thực tế, số vốn giải ngân trên số vốn cam kết vẫn ở mức thấp, nguồn vốn ODA giải ngân hàng năm chỉ đạt khoảng 50% cam kết. Thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và hành lang pháp lý nhằm trước mắt tạo sự tin tưởng với các nhà đầu tư để giải ngân theo cam kết góp phần mở rộng quy mô dự trữ ngoại hối.
Thứ ba, có biện pháp thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn kiều hối và tăng cường thu hút ngoại tệ về NHNN. Với chính sách tự do hoá các giao dịch vãng lai, nguồn kiều hối chảy về nước liên tục gia tăng qua các năm. Để khai thác tối đa nguồn ngoại tệ này, cần tạo niềm tin cho kiều bào về sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trong nước. Tổng cục Hải quan cần kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn kiều hối lậu chảy về. Khuyến khích các NHTM mua vào lượng kiều hối này để thu hút và bán cho Ngân hàng Nhà nước.
Thứ tư, để tăng cường dự trữ ngoại hối, trong khi thực hiện mục tiêu giảm đô la hóa, vàng hóa bền vững, cần thực hiện các giải pháp sau: (i) Thực hiện CSTT thận trọng, phù hợp nhằm đảm bảo cân bằng giữa lợi ích nắm giữ đô la và đồng Việt Nam, có chính sách phù hợp để mua được đô la từ kiều hối, nguồn thu xuất khẩu và các nguồn thu ngoại tệ của ngân sách nhà nước, hạn chế cho vay ngoại tệ, nghiêm cấm việc niêm yết và thanh toán bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam; (iii) Hạn chế việc sử dụng dự trữ ngoại hối cho các nhu cầu chi của Ngân sách Nhà nước; và (iv) Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ trên tổng huy động ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng ở mức cao hơn so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam.
* Các công cụ hành chính:
Trong thực tế điều hành tỷ giá hối đoái, nên có sự nới lỏng các biện pháp hành chính chứ không thể xóa bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, phải từng bước tiến đến loại bỏ các công cụ kiểm soát TGHĐ mang tính hành chính.
Ngân hàng Nhà nước nên giảm dần, tiến đến loại bỏ các biện pháp điều tiết hành chính như: khống chế TGHĐ kỳ hạn, giới hạn phí hoán đổi tiền tệ, hạn chế biên độ tỷ giá kinh doanh... Tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại kinh doanh ngoại tệ theo cơ chế thị trường và áp dụng các công cụ phòng chống rủi ro TGHĐ. Ngân hàng
Nhà nước không nên áp đặt trực tiếp mà chỉ tác động gián tiếp đến TGHĐ thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
(4) Nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin; Nâng cao năng lực dự báo, phân tích chính sách của các cơ quan quản lý tiền tệ.
Thị trường ngoại hối là thị trường toàn cầu (không có giới hạn về thời gian và không gian). Trong các loại hình dịch vụ tài chính, dịch vụ ngoại hối là dịch vụ có mức độ sử dụng giao dịch trực tuyến cao nhất, sử dụng phương tiện, kỹ thuật công nghệ thông tin hiện đại. Do vậy, phát triển hệ thống hạ tầng thông tin là điều kiện vô cùng quan trọng tạo nền tảng cho việc phát triển thị trường ngoại hối.
Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia, bảo đảm có sự kết nối tốt với hệ thống thông tin của khu vực và thế giới tạo nền tảng công nghệ thông tin cho thị trường ngoại hối phát triển và hội nhập. Khuyến khích và thúc đẩy các NHTM đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ hối đoái nói riêng. Khuyến khích các tổ chức và cá nhân ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận các dịch vụ hối đoái.
4.3.4. Nhóm giải pháp xác định và tính tỷ giá trung tâm
Qua phần đánh giá ở chương 3 về việc điều hành tỷ giá hối đoái theo tỷ giá trung tâm từ năm 2016 đến nay. Tác giả đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện cách xác định và tính tỷ giá trung tâm như sau:
Một là nghiên cứu, xem xét điều chỉnh rổ tiền tệ tính tỷ giá trung tâm linh hoạt phù hợp với những biến động của thị trường
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, vào tháng 8/2015 - khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá neo với rổ tiền tệ dựa trên tỷ giá trung tâm (TGTT) thì rổ tiền tệ để tính TGTT của Nhân dân tệ (RMB) bao gồm 12 đồng tiền/ngoại tệ (trước khi thực hiện TGTT rổ tiền tệ của Trung Quốc chỉ bao gồm 4 ngoại tệ), và đến tháng 1/2017 số đồng tiền ngoại tệ trong rổ để tính TGTT đã là 24 ngoại tệ.
Kể từ tháng 1/2016 đến nay (2021), TGTT của Việt Nam neo với 8 đồng tiền/ngoại tệ trong rổ tiền tệ. Như vậy, Việt Nam đã thực hiện cơ chế điều hành TGHĐ theo TGTT được hơn 5 năm, trong thời gian đó, thị trường và các đối tác thương mại, đầu tư, vay nợ… của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Bởi vậy, NHNN nên xem xét, nghiên cứu điều chỉnh (nếu cần thiết) rổ ngoại tệ (theo hướng mở rộng hơn ngoại tệ)
để tính TGTT cho phù hợp với những thay đổi của thị trường.
Hai là nghiên cứu, xem xét đa dạng hóa biên độ dao động của các đồng tiền trong rổ tiền tệ tính tỷ giá trung tâm của VND với các ngoại tệ
Hiện tại, biên độ dao động của tỷ giá VND với USD là +3%, NHNN không công bố biên độ dao động để tính TGTT giữa VND với 7 đồng tiền chủ chốt khác trong rổ tiền tệ. Theo kinh nghiệm của Trung quốc, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) không quy định chung một biên độ dao động cho tất cả các TGTT đối với tất cả các ngoại tệ trong rổ mà phân tách thành các mức khác nhau.
Theo tác giả, NHNN có thể học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc đưa ra biên độ dao động riêng cho từng đồng tiền trong rổ (tùy theo quan hệ thương mại, đầu tư, vay nợ của Việt Nam với quốc gia có đồng tiền đó, cũng như tình hình thị trường tài chính toàn cầu) để tính TGTT sát với cung cầu của thị trường, đồng thời, giảm thiểu rủi ro TGHĐ.
Ba là minh bạch cách xác định và tính toán mức tỷ giá trung tâm
Ngân hàng Nhà nước cần liên tục truyền thông để thị trường hiểu tỷ giá VND/USD công bố mỗi ngày không phải là TGHĐ song phương giữa VND và USD, mà là tỷ giá hữu hiệu đa phương, đã tính tới tỷ giá chéo và tỷ trọng thương mại của 8 quốc gia. Để thuyết phục được niềm tin của thị trường về tính minh bạch trong điều hành TGHĐ của mình, NHNN cần cân nhắc công bố công khai tỷ trọng của mỗi đồng tiền trong rổ tiền tệ tính tỷ giá trung tâm để tính chỉ số đồng Việt Nam. Tuy nhiên, lộ trình công bố thông tin cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng và đòi hỏi năng lực phòng ngừa rủi ro TGHĐ của các tổ chức tín dụng cao hơn, bởi vì, khi công khai tỷ trọng các đồng tiền trong rổ, có thể có những nhà đầu tư lợi dụng sự minh bạch này để tiến hành đầu cơ tiền tệ.
4.3.5. Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam
Cần nới lỏng, tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, cụ thể: Giảm dần, tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của NHNN trong việc xác định TGHĐ, xóa bỏ các quy định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các NHTM, v.v...
Thống nhất đầu mối theo dòi, giám sát sự dịch chuyển và sử dụng các nguồn vốn FDI, FPI vào hoặc ra trên lãnh thổ Việt Nam. Các khoản vay nợ nước ngoài nếu sử dụng cho đối tượng trong nước phải được bán cho ngân hàng để bổ sung dự trữ ngoại hối. Giám sát và quản lý hữu hiệu đối với các khoản vay ngắn hạn từ nước ngoài của
các ngân hàng hoặc vay ngắn hạn có bảo lãnh từ ngân hàng. Các khoản vay tài trợ L/C nhập khẩu dễ làm cho cung cầu ngoại tệ biến bất thường, gây khó khăn cho điều hành TGHĐ và lãi suất ngoại tệ, cũng như nội tệ.
Cần tăng cường quản lý ngoại hối nhằm đảm bảo TTNH hoạt động có hiệu quả, những hạn chế sử dụng và những quy định hành chính sẽ làm méo mó hoạt động của thị trường. Đồng thời, cần tạo điều kiện để kiểm soát và quản lý hoạt động của TTNH nhằm tránh bị giới đầu cơ lũng đoạn thị trường và tác động đến sự an toàn của hệ thống tài chính. Để đạt được mục tiêu này cần giám sát chặt chẽ luồng ngoại tệ chảy vào/ra khỏi nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo thực hiện tự do hóa giao dịch vãng lai, từng bước tự do hóa giao dịch vốn. Khơi thông dòng ngoại tệ tạo điều kiện cho TTNH phát triển phải đi đôi với xây dựng hệ thống tài chính lành mạnh và phát triển thị trường tài chính.
Bên cạnh nỗ lực giữ vững tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát thì việc thực thi chính sách quản lý ngoại hối nhằm bảo đảm VND được tự do chuyển đổi trên các giao dịch vãng lai và từng bước được chuyển đổi trên các giao dịch vốn có ý nghĩa quan trọng góp phần đưa Việt Nam hội nhập vào hệ thống thương mại quốc tế, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa, giảm áp lực cầu ngoại tệ trên thị trường.
4.4. Kiến nghị chính sách
4.4.1. Đối với Chính phủ, các Bộ, ngành
Phối hợp đồng bộ chính sách giữa các chính sách vĩ mô, giữa các Bộ, ngành để Việt Nam không bị gắn mác là quốc gia thao túng tiền tệ và giúp cho cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn
Như đã đề cập ở trên, trong Báo cáo tháng 12/2020 của Bộ Tài chính Mỹ gửi Thượng viện Mỹ về ―Các chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách tỷ giá của các đối tác thương mại của Mỹ‖, Việt Nam đã bị Mỹ gắn mác là quốc gia thao túng tiền tệ do đã đáp ứng đủ ba tiêu chí được quy định tại Khoản 701 (a), Luật Thúc đẩy Thương mại và Hiệu lực Thương mại (The Trade Facilitation and Trade Enforcement Act – The Act) năm 2015. Nếu một đối tác thương mại chủ yếu đáp ứng cả ba tiêu chí trên, Bộ Tài chính Mỹ sẽ tuyên bố là đồng tiền của quốc gia đó đang giao dịch không công bằng. Mỹ sẽ gắn mác thao túng tiền tệ cho quốc gia đó và có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt.
Làm thế nào để không bị gắn mác là quốc gia thao túng tiền tệ và nếu đã bị gắn mác thì làm thế nào để tháo gỡ cáo buộc đó là một vấn đề lớn, phức tạp, tầm cỡ quốc gia. Đồng thời, cần phối hợp các chính sách vĩ mô như thế nào để Việt Nam có một cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn là một trong những vấn đề quan trọng để Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả hơn trong bối cảnh thế giới đầy biến động. Trong khuôn khổ Luận án này, tác giả chỉ đưa ra một vài kiến nghị chính sách dưới góc độ điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá.
Thứ nhất, trong giai đoạn 2000-2020, Việt Nam đặt mục tiêu ưu tiên là ổn định tỷ giá1. Tăng cường CSTT độc lập và/hoặc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá sẽ góp phần ổn định giá cả, tuy nhiên, các nghiên cứu2 thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng riêng lẻ của ổn định TGHĐ tới biến động lạm phát là không rò ràng so với tác động của CSTT độc lập. Điều này cho thấy, trong ngắn hạn, việc duy trì ổn định TGHĐ có thể có tác động tích cực đến ổn định giá cả, nhưng xét về dài hạn, có thể dẫn tới mất cân đối và tiềm ẩn nguy cơ phá giá nội tệ, gây biến động về lạm phát. Trong khi đó, tăng cường sự linh hoạt của TGHĐ có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh khu vực kinh tế đối ngoại và quản lý các điều kiện thanh khoản trong nước.
Thứ hai, kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia cho thấy CSTT độc lập đóng vai trò hết sức quan trọng bởi khả năng sử dụng có hiệu quả các công cụ của CSTT sẽ giúp NHTW duy trì linh hoạt về kinh tế vĩ mô, đồng thời, chống lại ảnh hưởng từ những cú sốc bên ngoài một cách có hiệu quả. Thêm vào đó, kết quả kiểm định tại Việt Nam cho thấy gia tăng không gian cho CSTT sẽ làm giảm biến động lạm phát, trong khi tác động của việc theo đuổi chính sách ổn định TGHĐ tới biến động lạm phát là không rò ràng. Bởi vậy, cùng với việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, sự kết hợp chính sách cần điều chỉnh theo hướng ưu tiên mức độ độc lập hơn về tiền tệ và chấp nhận giảm dần mức độ ổn định về TGHĐ (tỷ giá cần linh hoạt hơn theo hai chiều) thay vì ưu tiên ổn định TGHĐ như trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
Thứ ba, cần gia tăng tính độc lập của chính sách tiền tệ thông qua việc giảm thiểu sự chi phối các mục tiêu của chính phủ (chính sách tài khóa) đến mục tiêu dài hạn của CSTT. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
1 Theo IMF (2020), trên thực tế, chế độ tỷ giá hối đoái của Việt Nam được phân loại là chế độ tỷ giá ổn định (defacto Stabilized); Về mặt pháp lý, chế độ tỷ giá hối đoái của Việt Nam là thả nổi có quản lý (Managed Floating)
2 Tô Kim Ngọc và các cộng sự (2017), Nghiên cứu mức độ đánh đổi của Bộ ba bất khả thi và gợi ý cho Việt
Nam.
Điều hành CSTT trong ngắn hạn cần tính đến những đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô (ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát ở mức thấp và ổn định). Tuy nhiên, trong dài hạn cần khẳng định giá cả là mục tiêu duy nhất của CSTT và chỉ số lạm phát là chỉ tiêu duy nhất phản ánh mức độ thành công của CSTT. Chính sách tiền tệ cần kiên trì theo đuổi mục tiêu lạm phát không chỉ khi lạm phát ở mức cao mà ngay cả khi lạm phát ở mức thấp để tạo niềm tin của thị trường.
Để duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần tăng cường hiệu quả phối hợp các chính sách vĩ mô hơn nữa. Để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô đặt ra, chính sách tiền tệ trong đó chính sách TGHĐ là một phần quan trọng của CSTT khó có thể thực hiện thành công nếu không có sự phối hợp tốt với các chính sách vĩ mô khác, đặc biệt là chính sách tài khóa.
Trên thực tế, trong một số thời kỳ, Chính phủ đặt mục tiêu ổn định giá cả nhằm duy trì mục tiêu lạm phát nhưng mức vay nợ của Chính phủ không giảm, bội chi ngân sách cao, dư nợ cho vay của hệ thống Ngân hàng Phát triển không ngừng tăng cộng với các đợt điều chỉnh lương rất nhạy cảm thực sự là cú hích đẩy mặt bằng giá tăng. Lạm phát tăng cao xuất phát từ M21 gia tăng còn do tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại các ngân hàng thương mại vẫn ở mức lớn, đầu tư ngân sách và tín dụng phát triển qua Ngân hàng Phát triển Quốc gia cũng rất lớn nhưng chưa được linh hoạt điều chuyển tiền gửi Kho bạc Nhà nước về NHNN để hạn chế số nhân tiền tệ. Ảnh hưởng lan truyền của
tình trạng này là mặt bằng lãi suất bị đẩy lên cộng hưởng bởi nhu cầu huy động vốn của tổ chức tín dụng tăng mạnh (đặc biệt vào cuối năm) do áp lực của tỷ lệ tăng trưởng mà Quốc hội đề ra. Lãi suất cao cùng với các quy định thắt chặt việc kiểm soát chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng sẽ làm cho nhu cầu đầu tư giảm tương đối, trong khi mức lãi suất cao lại không giảm được tỷ lệ lạm phát bởi nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phía tổng cung: như giá nguyên liệu thế giới, vấn đề cơ cấu, hiệu quả...
Chính sách tiền tệ phải duy trì được năng lực điều tiết các điều kiện tiền tệ một cách linh hoạt và hiệu quả thông qua việc: (i) Chuyển từ cơ chế điều chỉnh về lượng (M2, tín dụng) sang điều chỉnh về giá (lãi suất), lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động của CSTT, tiến tới thực hiện khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu;
(ii) Hoàn thiện mô hình hoạt động của thị trường liên ngân hàng với vai trò của tổ chức môi giới tiền tệ.
Thứ tư, cần triển khai gỡ bỏ các hạn chế đối với các giao dịch vốn theo lộ trình
1 M2: Tổng phương tiện thanh toán (Tổng khối lượng tiền theo nghĩa rộng).