Cơ cấu kinh tế của vùng trọng điểm Bắc Bộ trên quan điểm phát triển bền vững - 2

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

Tăng trưởng và phát triển quyết định sự thịnh vượng của xã hội ở mỗi quốc gia. Nói tới tăng trưởng và phát triển kinh tế, người ta nghĩ ngay tới nền kinh tế với tư cách là một hệ thống. Cơ cấu kinh tế là thuộc tính cơ bản của nền kinh tế, nó có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển của hệ thống kinh tế. Với cách đặt vấn đề như vậy, tác giả mong muốn làm sáng tỏ vấn đề cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ hợp thành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ lệ thành phần trong cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác nhằm có được sự phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng trong nội bộ cơ cấu. Chuyển dịch cơ cấu ảnh hưởng đến cơ sở tài nguyên thiên nhiên, làm biến đổi môi trường và đặt ra những vấn đề xã hội. Một nền kinh tế chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ thì việc mở rộng sản xuất, tăng mức tiêu thụ sẽ làm gia tăng mức độ khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, gia tăng khối lượng chất thải làm cho tình trạng môi trường có chiều hướng ngày càng xấu đi. Những vấn đề xã hội như nạn thất nghiệp, sự bất bình đẳng trong thu nhập, nghèo đói, tệ nạn xã hội cũng sẽ có chiều hướng gia tăng và đặt ra những thách thức gay gắt. Những vấn đề môi trường và xã hội sẽ tác động trở lại hoạt động kinh tế và cuộc sống con người.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, trong những thập kỷ gần đây đã xuất hiện triết lý "phát triển bền vững", nhiều học giả đã coi đây là bước tiến có tính cách mạng về quan niệm phát triển, phù hợp với văn minh của loài người. Mặc dù, hiện nay cách hiểu và ứng dụng triết lý "phát triển bền vững" vẫn còn khác nhau, nhưng nói đến phát triển bền vững là nói đến yêu cầu cân đối, hài hoà giữa ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Nếu bỏ sót một trong ba yêu cầu này thì ý nghĩa bền vững của sự phát triển không còn đầy đủ. Triết lý "phát triển bền vững" không chỉ đang chi phối đường


lối phát triển của nhiều quốc gia mà đã được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam.

Phát triển bền vững cũng có nghĩa là phải có chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hoàn thiện hơn. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là phải nghiên cứu cho ra những nội hàm căn bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững và triển khai ứng dụng nó trong thực tiễn. Vấn đề này rất có ý nghĩa đối với Việt Nam, khi nước ta đặt quyết tâm theo con đường phát triển bền vững và còn thiếu kinh nghiệm về xây dựng cơ cấu kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.

Với chủ trương tập trung đầu tư phát triển các vùng kinh tế trọng điểm có ý nghĩa động lực, lôi kéo các vùng khác cùng phát triển, Đảng và Nhà nước đã thành lập ba vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (KTTĐBB). Vùng kinh tế trọng điểm này gồm có 8 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Đây là vùng có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Trong thời gian gầy đây, vùng này đã có những chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; nhưng sự chuyển dịch đó đã làm xuất hiện những xung đột giữa kinh tế, xã hội, môi trường, tiềm ẩn các nguy cơ, rào cản đối với sự phát triển bền vững của bản thân Vùng KTTĐBB và của cả nước.

Việc nghiên cứu làm sáng tỏ thêm những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững đối với Vùng KTTĐBB có ý nghĩa quan trọng để tìm ra các giải pháp hữu hiệu bảo đảm sự bền vững của chuyển dịch và rút kinh nghiệm đối với các vùng kinh tế trọng điểm khác trong cả nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 263 trang tài liệu này.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững là những vấn đề được rất nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và là chủ đề được đưa ra trao đổi, bàn luận trong nhiều hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế.

Cơ cấu kinh tế của vùng trọng điểm Bắc Bộ trên quan điểm phát triển bền vững - 2


Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được C. Mác đề cập trong học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết về tái sản xuất xã hội.

Kinh tế học thuộc trào lưu chính đã đi sâu phân tích các điều kiện bảo đảm sự hoạt động hữu hiệu của thị trường, coi đây là động lực phát triển kinh tế, nhưng cũng đã đề cao vai trò can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm hoạt động bình thường của thị trường, duy trì ổn định vĩ mô.

Lý luận về giai đoạn phát triển kinh tế với đại biểu nổi bật W. W. Rostow đã chia quá trình phát triển kinh tế của một nước thành 5 giai đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, tăng trưởng và mức tiêu dùng cao. Sau nhà kinh tế học D. Bell, mới đây, học giả Tatyana P. Soubbotina đã làm rõ thêm quá trình phát triển kinh tế qua các giai đoạn nông nghiệp, công nghiệp hoá, hậu công nghiệp. Học giả Tatyana cũng rất quan tâm đến cuộc cách mạng tri thức, trong đó đề cao vai trò của khoa học, công nghệ và chất xám trong quá trình phát triển của các quốc gia. Ngân hàng Thế giới cho rằng quá trình phát triển kinh tế bao gồm các giai đoạn nghèo đói, công nghiệp hoá, phát triển tiêu thụ. Đằng sau sự phát triển kinh tế là mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nếu không có chiến lược phát triển bền vững thì mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường hay mâu thuẫn giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bảo vệ môi trường sẽ không thể giải quyết được.

Hiện nay đã xuất hiện "trường phái cơ cấu luận" với những quan điểm về phát triển cơ cấu kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự bành trướng của chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, lý luận về sự biến động cơ cấu của trường phái cổ điển giữ vị trí chủ yếu, tiêu biểu là "mô hình kinh tế nhị nguyên của Lewis- Fellner- Ranis" và mô hình phân tích cơ cấu của Chenery. Vấn đề cốt lõi là các nước đang phát triển phải vận dụng cơ cấu kinh tế nào thì mới có thể làm cho cơ cấu của nền kinh tế chuyển từ một xã hội nông nghiệp truyền thống là chủ yếu thành xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, đa dạng hoá lấy ngành chế tạo, ngành dịch vụ làm nòng cốt. Trong những năm 1950, 1960, "mô hình kinh tế nhị nguyên" đã được thừa nhận là nguyên lý phổ biến để giải thích quá trình, cơ chế phát triển của những nước dư thừa lao động. Về cơ bản, nó cũng đã phản ánh được một số quy luật khách quan của sự vận động đối


lập, chuyển hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa chuyển dịch dân cư và đô thị hoá trong quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, mô hình này đã có một số khiếm khuyết do các giả thuyết đưa ra không phù hợp với thực tế của các nước đang phát triển hiện nay.

Xét về nguồn gốc triết lý "phát triển bền vững" đã có những nhìn nhận trước đây. Học thuyết Mác đã coi con người là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên. Chính Ăngghen đã cảnh báo về “sự trả thù của giới tự nhiên” khi chúng bị tổn thương. Trong thập kỷ 1960 và 1970, các vấn đề môi trường đã được nhận thức với sự tiên đoán của những người theo chủ nghĩa Malthus mới (neo-Malthusian) về sự bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển hay sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự gia tăng ô nhiễm môi trường. Tuy vậy, đến Hội nghị của Liên hợp quốc (LHQ) về Môi trường con người (năm 1972 tại Stockholm), tầm quan trọng của vấn đề môi trường mới chính thức được thừa nhận. Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (còn được gọi là Báo cáo Brundtland) của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) năm 1987, người ta đã thừa nhận mối liên kết chặt chẽ giữa môi trường và phát triển và lần đầu tiên khái niệm phát triển bền vững mới được hiểu một cách đầy đủ "phát triển bền vững là sự phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ". Từ đó đến nay, khái niệm này liên tục được phát triển và hoàn thiện, đặc biệt kể từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển (năm 1992 tại Rio de Janeiro, Braxin) và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (năm 2002 tại Johannesburg, Nam Phi). Vấn đề cốt lõi nhất của phát triển bền vững chính là sự phát triển bảo đảm sự bền vững trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường.

Ở Việt Nam, do sớm nhận thức được tầm quan trọng, tính bức thiết của vấn đề môi trường và phát triển bền vững, ngay sau Tuyên bố Rio, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững và các chính sách, pháp luật đó đã bước đầu đi vào cuộc sống.


Học giả Ngô Doãn Vịnh cũng có một số công trình nghiên cứu liên quan. Trong tác phẩm "Bàn về phát triển kinh tế (Nghiên cứu con đường dẫn tới giàu sang)", học giả đã tập trung luận giải những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững và đã đưa ra khái niệm "phát triển đến ngưỡng cho phép"; đồng thời những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững cũng đã được phân tích, làm sáng tỏ phần nào.

Gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, một số công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề nêu trên đối với Vùng KTTĐBB cũng đã và đang được tiến hành; trong đó, điển hình là các nghiên cứu do Viện Chiến lược phát triển thực hiện về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội địa bàn trọng điểm Bắc Bộ (thực hiện năm 1995); quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội Vùng KTTĐBB thời kỳ 2006 - 2020 và Đề tài thu thập, xây dựng hệ thống chỉ tiêu và đánh giá tiềm năng thế mạnh hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội các vùng KTTĐ Việt Nam (thực hiện năm 2006).

Từ các công trình nghiên cứu trên cho thấy:

Thứ nhất, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính toàn diện, sâu sắc, bài bản về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững đối với một vùng kinh tế, nhất là đối với một vùng lãnh thổ kinh tế quan trọng như Vùng KTTĐBB. Hầu hết các công trình mới chỉ dừng lại ở từng vấn đề đơn lẻ như cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, môi trường và phát triển, phát triển bền vững, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Vì vậy, trong luận án này, tác giả đi sâu phân tích, luận giải những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của Vùng KTTĐBB; đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm sự bền vững của quá trình chuyển dịch đó.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu thông thường là định tính. Vì vậy, trong luận án, tác giả đã đề xuất hệ thống các nhóm chỉ tiêu phản ánh sự bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Trên cơ sở đó,


thông qua việc sử dụng mô hình Bảng cân đối liên ngành I/O và sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, tác giả đã đo lường sự bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vùng KTTĐBB. Đây là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách phát triển, các nhà nghiên cứu lý luận khi xem xét, đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một vùng lãnh thổ trên quan điểm phát triển bền vững.

3. Mục đích nghiên cứu

Luận án tập trung đưa ra những quan điểm, phương pháp tiếp cận vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của Vùng KTTĐBB.

(i) Về lý luận: Hệ thống hoá và vận dụng vào điều kiện Việt Nam, trực tiếp là Vùng KTTĐBB những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững. Từ đó, luận giải những vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững.

(ii) Về thực tiễn: Phân tích, đánh giá sự bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vùng KTTĐBB trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường trong thời gian gần đây và dự báo đến năm 2020. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp bảo đảm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của Vùng KTTĐBB.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án này là cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của Vùng KTTĐBB.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

(i) Phạm vi khoa học

Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của Vùng KTTĐBB. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, phức tạp và trong khuôn khổ của luận án này không thể đề cập, giải quyết hết các vấn đề có liên quan, do vậy, luận án tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền


vững theo ba khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó khía cạnh môi trường sẽ được chú trọng, phân tích sâu hơn so với các khía cạnh kinh tế, xã hội; lý do cơ bản là do các khía cạnh kinh tế, xã hội đã được đề cập khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khác, trong khi đó khía cạnh môi trường ít được quan tâm hơn; đồng thời để nâng cao khả năng ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào công việc cụ thể của tác giả, hiện nay đang công tác tại cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường cấp vĩ mô. Mặt khác, để tránh dàn trải, tác giả đã tập trung hơn vào việc luận giải những vấn đề về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, coi đây là cơ cấu "trụ".

(ii) Phạm vi thời gian

Mặc dù, tác giả đã cố gắng tập hợp, xử lý các số liệu của giai đoạn trước năm 2000. Song do sự thay đổi ranh giới (số đơn vị tỉnh) của bản thân Vùng KTTĐBB nên việc tập hợp số liệu thống kê trong giai đoạn này (bao gồm cả các số liệu về kinh tế, xã hội, môi trường) hết sức khó khăn. Việc thống kê theo lãnh thổ ở nước ta chưa thật đầy đủ, toàn diện. Do đó, số liệu phải xử lý phục vụ vào việc nghiên cứu của đề tài là rất lớn và được cập nhật, tính toán chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005, dự báo cho cả thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến các năm 2010 và 2020.

(iii) Phạm vi không gian

Luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu ở Vùng KTTĐBB, gồm 8 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Ngày 11 tháng 9 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 747/TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Vùng KTTĐBB thời kỳ 1996- 2010; đánh dấu mốc ra đời Vùng KTTĐBB với phạm vi ban đầu gồm 5 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương và Hưng Yên. Tháng 7 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định bổ sung ba tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây và Bắc Ninh vào Vùng KTTĐBB, mở rộng phạm vi Vùng KTTĐBB gồm toàn bộ 8 tỉnh, thành phố nêu trên. Ngày 13 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 145/2004/QĐ-TTg phê duyệt phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế- xã hội Vùng KTTĐBB đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Ngày 14


tháng 9 năm 2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 54-NQ/TW về phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng (trong đó gồm cả Vùng KTTĐBB) đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Ngày 17 tháng 8 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 191/2006/QĐ-TTg về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 54- NQ/TW.

5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu

5.1. Phương pháp luận

- Dựa trên quan điểm, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững; luận án cũng được xây dựng trên quan điểm của Đảng đối với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sử dụng những công trình nghiên cứu có giá trị trên thế giới để phân tích, luận giải những vấn đề có liên quan.

- Quá trình nghiên cứu đã sử dụng tư duy biện chứng, lịch sử và quan điểm tổng hợp liên ngành cho một lãnh thổ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, quy nạp, diễn dịch, thực chứng, mô hình, xây dựng kịch bản, đánh giá theo kịch bản; trong đó, tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để giải quyết các vấn đề trong Chương II; phương pháp mô hình I/O để giải quyết các vấn đề trong Chương III.

- Để bổ sung thông tin, nghiên cứu sâu hơn các vấn đề, tác giả đã dành thời gian đi khảo sát thực tế, thu thập thông tin, số liệu của các địa phương trong Vùng KTTĐBB.

- Sử dụng phương pháp bản đồ để nghiên cứu, phân tích các mối quan hệ không

gian.


5.3. Nguồn số liệu

- Số liệu thứ cấp: số liệu báo cáo từ các cơ quan có liên quan của Đảng và Nhà

nước (như Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ, Văn phòng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/08/2023