Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Điện Biên - 8


giữa hai phân ngành trồng trọt và chăn nuôi và sự thay đổi tương đối đều đặn qua các năm. Cơ cấu ngành nông nghiệp đã có sự chuyên dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt và tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi. Nhưng xét tổng thể thì ngành trồng trọt vẫn là chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp cho dù chỉ số phát triên bình quân của phân ngành chăn nuôi và dịch vụ có xu hướng cao hơn chỉ số phát triển của ngành trồng trọt.

Về cơ cấu cây trồng: nhìn chung giá trị sản xuất cây lương thực vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với các loại cây trồng khác và hầu như không có sự thay đổi trong thời gian qua. Nếu như năm 2005 giá trị sản xuất cây lương thực chiếm tỷ trọng 66% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt thì đến năm 2009 vẫn chiếm tới 65%. Ngoài nhóm cây công nghiệp hàng năm có tỷ trọng giá trị sản xuất giảm, cơ cấu giá trị sản xuất các loại cây râu đậu, cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm đều tăng nhưng không đáng kể và vẫn chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng giá trị sản xuất. Như vây, cơ cấu ngành trồng trọt đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản xuất các nhóm cây trồng có giá trị gia tăng thấp sang nhóm cây trồng có giá trị gia tăng và thị trường lớn hơn, cho dù mức độ chuyển dịch còn chậm, chưa khai thác hết lợi thế của tỉnh có đặc điểm đất đai, thổ nhưỡng phù hợp cho phát triển cây công nghiệp.

Đối với ngành chăn nuôi: chăn nuôi đại gia súc vẫn chiếm ưu thế phù hợp với điều kiện của tỉnh, số lượng các loại gia súc đều tăng, năm 2005 lợn có 210.616 con, trâu có 104.366 con, bò có 27.633 con và đến năm 2009 đã tăng lên 262.948 con lơn, 111.052 con trâu và 36.341 con bò. Chỉ số phát triển bình quân của ngành chăn nuôi là 12,196%/năm cao hơn chỉ số phát triển của ngành nông nghiệp. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng bình quân 8,53%/năm cao hơn so với mức 6,4%/năm của ngành nông nghiệp trong giai đoạn 2005 - 2010. Tuy vậy, để phát triển mạnh ngành chăn nuôi cần thay đổi cách thức chăn nuôi phân tán thả dông tự nhiên, thiếu các biện pháp kỹ thuật


chăm sóc và phòng, chữa bệnh sang chăn nuôi tập trung hơn trên cơ sở tăng cường các biện pháp kỹ thật và thú y, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu thị trường.

Kinh tế trang trại đã bước đầu hình thành và đạt được những kết quả nhất định, tổng số trang trại trong tỉnh tăng từ 139 trang trại năm 2005 lên 186 trang trại năm 2009. Đây là sự phát triển tất yếu hợp với quy luật phát triển.

Như vây, nhìn một cách chung nhất thì cơ cấu ngành nông nghiệp tuy có sự chuyển dịch tích cực nhưng vẫn còn chậm chưa phát huy hết tiềm năng, sản xuất nông nghiệp truyền thống lấy việc trồng cây lương thực vẫn chiếm ưu thế. Tuy nhiên ngành nông nghiệp cũng đạt được những thành tựu có ý nghĩa đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung:

Thứ nhất, sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 435kg/người, đảm bảo cân đối lương thực và có sản phẩm hàng hóa. Đây là cơ sở cho những bước tiếp theo của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng như công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

Thứ hai, sản xuất theo kiểu trang trại đã bước đầu được hình thành phù hợp với kinh tế thị trường. Công cuộc đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp bắt đầu từ chỉ thị 100 CT/TW (1/1981) và sau đó là Nghị quyết số 10-NQ/TW (4/1988), đã giải phóng nền sản xuất nông nghiệp khỏi những hạn chế của hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, tái lập lại hình thức sản xuất nông nghiệp hàng hóa với kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ bản. Sự tái lập hình thức kinh tế hộ trong khuôn khổ chuyển đổi cơ chế sang kinh tế thị trường tuy là loại hình kinh tế hàng hóa nhỏ, nhưng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Do đó loại hình kinh tế hộ đã phát huy được vai trò động lực chủ yếu tạo ra những thành tựu to lớn vế sản xuất lúa gạo. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp


chịu sự chi phối của quy luật thị trường. Nhưng đến nay, kinh tế nông hộ đã bộc lộ những hạn chệ trong việc phát triển nền sản xuất hàng hóa nông sản lớn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường toàn cầu. Hiện nay, kinh tế trang trại mới bước đầu hình thành nhưng đây là điều kiện quan trọng của chính sách phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong những năm tới.

Thứ ba, bước đầu hình thành nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Tỷ lệ các loại hàng hóa nông sản đang chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trên thị trường. Người nông dân đã bước đầu hình thành thói quen sản xuất nhằm để bán trên thị trường. Đây thực sự là tập quán có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa và có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

- Ngành lâm nghiệp

Mặc dù không đáng kể nhưng giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp vẫn có xu hướng tăng qua các năm. Theo giá so sánh năm 1994, giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp năm 2003 là 131.149 triệu đồng, năm 2004 là 127.076 triệu đồng, năm 2005 là 132.326 triệu đồng, năm 2006 là 134.651 triều đồng, năm 2007 là 137.637 triệu đồng, năm 2008 là 140.268 triệu đồng và năm 2009 là 156.894 triệu đồng. Về cơ cấu ngành lâm nghiệp trong toàn ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản có xu hướng giảm, từ 9,75% năm 2004 xuống còn 8,11% năm 2008 và sơ bộ năm 2009 là 8,05%; tổng diện tích rừng hiện có năm 2009 là 397.619 ha, trong đó có 379.268 ha rừng tự nhiên và 18.351 ha rừng trồng. Với một tỉnh miền núi chủ yếu là đồi núi, đất trồng rừng nhưng mức đống góp của ngành lâm nghiệp còn khiêm tốn cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản và có xu hướng giảm đi. Người dân sống trong môi trường rừng là rất lớn nhưng số lao động


thực sự làm nghề rừng thì lại rất ít, đây là một thách thức đối với phát triển bền vững của ngành lâm nghiệp cũng như của tỉnh Điện Biên.

- Ngành thủy sản

Ngành thủy sản vẫn có mực đóng góp rất nhỏ bé vào giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp nói chung. Giá trị sản xuất theo giá so sánh năm 1994, năm 2005 ngành thủy sản đạt 7.150 triệu đồng đến năm 2009 đạt 11.685 triệu đồng; về tỷ trọng, giá trị sản xuất của ngành thủy sản chỉ chiếm có 0,79% giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản vào năm 2009, con số cao nhất từ trước đến nay.

Ngành thủy sản phụ thuộc vào nguồn nước, trong khi nguồn nước lại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng điều hòa dòng chảy của rừng. Do đó, để phát triển thuận lợi ngành thủy sản thì vấn đề trồng rừng, bảo vệ rừng để tăng diện tích che phủ của rừng có ý nghía rất quan trọng reong việc điều hòa nguồn nước. Như vây, phát triển rừng không chỉ vì bản thân ngành lâm nghiệp, mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng nến không nói là sống còn đối với ngành nông nghiệp, thủy sản, thủy điện và du lịch.

Như vây, trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản trong thời gian qua không có sự chuyển dịch đáng kể nào, tỷ trọng ngành lâm nghiệp giảm nhẹ còn tỷ trọng ngành nông nghiệp và thủy sản lại tăng lên tương ứng.

b. Ngành công nghiệp và xây dựng

Mặc dù tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng trong tổng GDP của toàn nền kinh tế có sự gia tăng nhưng không ổn định. Năm 2003 đạt 27,84%, các năm tiếp theo đến năm 2008 đều ở mức thấp hơn với biên độ khác nhau, năm 2009 có sự phục hồi nhưng vẫn chưa đạt tỷ trọng như năm 2003, riêng năm 2010 thì tăng và đạt tỷ trọng 28,40%.

Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh có tăng, năm 2003 đạt

194.094 triệu đồng, năm 2005 đạt 275.884 triệu đồng, năm 2008 đạt 411.683


triệu đồng và năm 2010 đạt 556.600 triệu đồng; nhịp độ tăng trưởng bình quân đạt 16,6% /năm, cao so với tốc độ tăng bình quân của GDP (hơn 11%/năm).

Nếu tách riêng ngành xây dựng thành một chỉ số độc lập thì tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP là rất nhỏ và có xu hướng giảm đi. Nếu năm 2005 tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm 11,26% thì đến năm 2009 tỷ trọng này giảm xuống còn có 9,4% trong tổng GDP. Sự giảm sút này là do sự giảm sút của ngành công nghiệp chế biến từ 7,83% xuống năm 2005 xuống còn 6,10% trong tổng GDP. Qua đó thấy được mức đóng góp của ngành công nghiệp vào GDP là rất thấp so với ngành nông nghiệp và các ngành khác.

Thời kỳ này, ngành xây dựng có mức tăng trưởng tương đối khá, giá trị sản xuất theo giá so sánh năm 2003 đạt 390.932 triệu đồng và năm 2009 là 452.957 triệu đồng, tăng 62.025 triệu đồng. Tỷ trọng trong GDP tăng từ 13,84% năm 2005 lên 18,28% năm 2009.

Về cơ cấu phân thành ba ngành, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước thì ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng rất lớn.

Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Điện Biên 2004 - 2009

Đơn vị: %


Năm

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Công nghiệp khai thác mỏ

9,07

8,73

4,44

3,72

4,88

7,36

Công nghiệp chế biến

83,60

83,35

83,59

85,38

81,71

79,53

CNSX và PP điện, khí đốt và nước

7,33

7,92

11,97

10,90

13,41

13,11

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Điện Biên - 8

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên năm 2005, 2009

Như vây, tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá trị sản xuất của ngành công nghiệp nhưng lại có xu hướng giảm từ 83,60% năm 2004 xuống còn 79,53% năm 2009. Tỷ trọng giá trị sản xuất của


ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước và khí đốt năm 2009 là 13,11% tăng 5,78% so với năm 2004. Nhóm ngành khai thác tỷ trọng giá trị sản xuất giảm từ 9,07% năm 2004 xuống 7,36% vào năm 2009, giảm 1,71%.

Trong nhóm ngành công nghiệp chế biến thì giá trị sản xuất công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống lại chiếm tỷ trọng lớn nhất và cao hơn mặt bằng chung của cả nước, năm 2005 chiếm 67,10% và năm 2009 là 69,09% và có tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003 - 2009 là 35,40% một năm. Trong 16 ngành công nghiệp chế biến, năm 2009 chỉ có 5 ngành có giá trị sản xuất trên 10 tỷ đồng, 6 ngành có giá trị sản xuất trên 2 tỷ đồng và dưới 10 tỷ đồng và có tới 4 ngành có giá trị sản xuất dưới 500 triệu đồng theo giá so sánh năm 1994.

Trong giai đoạn 2005 - 2009, có 3 ngành có mức tăng trưởng giá trị sản xuất âm đó là sản xuất giấy và sản phẩm bằng giấy, ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm từ hóa chất, ngành sản xuất máy móc thiết bị, 7 ngành có mức tăng trưởng bình quân trên 12%, trong đó ngành có mức tăng trưởng cao và ổn định nhất là ngành sản xuất sản phẩm dệt.

Tóm lại, mặc dù ngành công nghiệp mấy năm gần đây đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng chủ yếu là những chỉ là tăng trưởng theo chiều rộng, tập trung ở những ngành không đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao; số tuyệt đối vẫn còn nhỏ không có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô. Mặc dù ngành công nghiệp chế biến giữ vai trò chủ đạo nhưng do chỉ dựa vào chế biến nông sản ở dạng sơ chế, do các cá thể hộ gia đình đầu tư là chủ yếu, chưa có sự chế biến sâu đáng kể, khoa học công nghệ lạc hậu nên có xu hướng giảm dần. Các ngành chế biến sâu đòi hỏi kỹ thuật cao không thể phát triển. Kinh tế nhà nước không có vai trò đáng kể nào để định hướng, thúc đẩy phát triển các nhóm ngành công nghiệp đúng hướng.

c. Ngành dịch vụ


Ngoài hai lĩnh vực sản xuất vật chất là nông nghiệp và công nghiệp nêu trên, tập hợp các ngành phi sản xuất vật chất còn lại bao hàm trong khối ngành dịch vụ. Khối ngành này bao gồm những ngành gọi là "dịch vụ trung gian": thông tin, vận tải, trung gian tài chính, điện, phân phối, xây dựng và dịch vụ thương mại và những ngành "dịch vụ thỏa mãn nhu cầu cuối cùng": du lịch và đi lại, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ về môi trường [29]. Ở Việt Nam các ngành xây dựng, sản xuất và phân phối điện nước vẫn được xếp chung vào nhóm ngành công nghiệp. Cùng với sự phát triển, tỷ trọng của ngành dịch vụ ngày càng tăng, nhất là khi công nghiệp hóa đã ở mức nhất định, khi đó thu nhập của con người cao hơn và xuất hiện các nhu cầu mới để nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Ở các nước công nghiệp phát triển, tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ còn cao hơn tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp. Thời đại ngày nay, có hai yếu tố tác động mạnh mẽ đến khu vực dịch vụ trọng cơ cấu kinh tế đó là:

Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa ngày càng mở rộng và với tốc độ nhanh chóng, kéo theo sự hòa nhập vào dòng chảy thương mại và sản xuất toàn cầu. Điều này làm nảy sinh các dịch vụ hỗ trợ như du lịch, tư vấn, nghiên cứu, khách sạn, hàng ăn…

Thứ hai, cách mạng tin học và sự phát triển của công nghệ thông tin liên lạc khiến sự phát triển kinh tế len được đến cả các vùng sâu, vùng xa và các dịch vụ cũng có cơ hội phát triển ở cả các vùng sâu, vùng xa chứ không chỉ riêng ở khu vực thành thị.

Các ngành dịch vụ có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế hiện nay là:

- Dịch vụ viễn thông: sự phát triển của dịch vụ viễn thông sẽ giúp cho có thể thực hiện được các dịch vụ chất lượng cao và sử dụng chuyên môn cao có khả năng tiếp cận được đến với các cộng đồng vùng sâu, vùng xa. Qua đó


giúp thu hẹp khoảng cách về chất lượng cuộc sống giữa nước phát triển và nước đang phát triên, tạo cơ hội cho cộng đồng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch vụ cơ bản chất lượng cao.

- Dịch vụ máy tính và mạng internet giúp cho người dân tiếp cận với mọi dịch vụ dễ dàng hơn như tìm kiếm khách hàng, tìm thông tin, thực hiện giao dịch, thực hiện các thủ tục hành chính.

- Giáo dục và đào tạo giúp tạo ra nguồn lao động chất lượng cao

- Các dịch vụ chuyên môn như kế toán, tư vấn pháp lý, bảo hiểm, nghiên cứu, thiết kế, tiếp thị… và các dịch vụ công như giao thông điện, nước…

Trong thời kỳ bao cấp trước đây, các hoạt động dịch vụ chỉ dừng lại ở lĩnh vực lưu thông phân phối và do nhà nước cung cấp. Các loại dịch vụ khác hầu như không có hoặc bị cấm. Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các ngành dịnh vụ cũng từng bước hình thành và phát triển đa dạng với tốc độ nhanh chóng góp phần thúc đẩy sản xuất của các ngành nông nghiệp, công nghiệp.

Các ngành dịch vụ mới ra đời như thông tin liên lạc, chuyển giao công nghệ, tư vấn, nghiên cứu, khai thác thị trường … đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế. Các loại dịch vụ mang tính chất kinh doanh đặc thù như thông tin liên lạc, vận tải, du lịch, nhà hàng đã có đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.

Quá trình đổi mới đã mở của cho các ngành dịch vụ phát triển, mở ra con đường rộng hơn thuận lợi hơn cho nền kinh tế phát triển. Nó cũng tạo cơ hội cho kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế tham gia mạnh mẽ hơn vào nên kinh tế và góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế. Lĩnh vực mà kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể tham gia nhiều nhất là thương mại bán buôn, bán lẻ. Vì vây, đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ sau ngày đổi mới đến nay. Qua số liệu thống kê của cục thống kê tỉnh Điện Biên thì ngành

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí