1.2.1.2. Nguồn vốn
Nguồn vốn là một nhân tố vô cùng quan trọng trong vấn đề đầu tư và phát triển kinh tế. Vốn là một yếu tố sản xuất trong quá trình sản xuất, thông qua cải tiến kỹ thuật, vốn đóng góp vào tăng trưởng sản lượng không chỉ một cách trực tiếp như một yếu tố đầu vào mà còn gián tiếp với vai trò tác động tích cực vào người lao động cũng như năng suất lao động. Ta thấy rằng, thông qua cải tiến kỹ thuật thì sự đầu tư sẽ nâng cao kỹ năng của người lao động và làm tăng năng suất lao động, giúp cho quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Ngoài ra, muốn mở rộng và gia tăng các ngành mới thì cần có nguồn vốn đầu tư lớn và sử dụng có hiệu quả. Với ý nghĩa đó, việc ưu tiên phân bổ vốn đầu tư vào những ngành có tiềm năng, có lợi thế so sánh, có điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại sẽ thúc đẩy các ngành đó tăng trưởng nhanh hơn và kết quả là CCKTN sẽ chuyển dịch theo hướng đã định.
Như vậy, đầu tư vốn giúp phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này đồng thời làm tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế. Đầu tư vào ngành nào, qui mô đầu tư vào từng ngành nhiều hay ít và việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, khả năng tăng trưởng cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề cho sự phát triển của các ngành… từ đó làm chuyển dịch cơ cấu của từng ngành.
1.2.1.3. Nguồn lực con người
Nguồn lực con người luôn là một nhân tố rất đỗi quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như CDCCKTN. Việc nâng cao chất lượng lao động, hướng đến một đội ngũ lao động chất lượng cao là mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp, tập đoàn, tổ chức và của cả nền kinh tế. Bởi vì, con người là nhân tố quyết định, là nhân tố tác động trực tiếp đến nền kinh tế.
Có thể nói, CDCCKTN đòi hỏi phải có nguồn lao động chất lượng cao, việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người có ý nghĩa sống còn đối với việc CDCCKTN theo hướng hiện đại. Muốn phát huy nhân tố con người một cách hợp
lý cần có hệ thống giáo dục, y tế,... tốt nhất. Trình độ học vấn và kiến thức thực tiễn của mỗi con người không thể tự nhiên có được, mà cần một nền giáo dục và đào tạo đúng mức, hiệu quả. Ta thấy rằng, các nhân tố về dân số như mật độ dân số, cơ cấu dân số, tốc độ tăng dân số, tháp dân số có liên quan trực tiếp đến khả năng đảm bảo nguồn lao động và nhu cầu của thị trường. Còn số lượng và chất lượng của lao động lại liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn ngành nghề và ngành nghề cần ưu tiên để phát triển, do đó có tác động trực tiếp đến sự thay đổi và CDCCKTN trong nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ nhất thiết phải quan tâm đến việc đào tạo, tuyển chọn và thu hút nhân tài, góp phần tích cực vào quá trình CDCCKTN của đất nước.
1.2.1.4. Kết cấu hạ tầng
Nhân tố kết cấu hạ tầng là một nhân tố hết sức cần thiết trong quá trình CDCCKTN. Các yếu tố của kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như: hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, bưa chính - viễn thông, hệ thống dịch vụ, hệ thống các công trình giáo dục, y tế, thể dục, thể thao... là điều kiện, tiền đề cho sản xuất hàng hóa và CDCCKT, tất cả các yếu tố đó đều có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến quá trình CDCCKTN của mỗi nước.
Kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, chi phối trình độ kỹ thuật và công nghệ. Nếu có một hệ thống giao thông hiện đại, tiên tiến với sự liên kết giữa các vùng miền khác nhau thì quá trình lưu thông hàng hóa sẽ rất thuận lợi. Ngoài ra, những đất nước có hệ thống giáo dục, y tế tiên tiến chắc chắn sẽ cho đào tạo ra nguồn lao động khỏe về thể chất, giỏi về năng lực chuyên môn, điều này hết sức quan trọng cho khả năng thành công của việc CDCCKTN. Hay các yếu tố thủy lợi, điện, bưu chính - viễn thông đều phát triển sẽ tạo ra một môi trường sản suất hiệu quả và có năng suất, bên cạnh đó nâng cao tính năng động của hàng hóa trên thị trường. Do đó, có thể khẳng định nhân tố kết cấu hạ tầng là một trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự hình thành, vận động và biến đổi của CCKTN.
Có thể bạn quan tâm!
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình - 1
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình - 2
- Sự Cần Thiết Phải Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Ngành
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Ngành
- Kinh Nghiệm Rút Ra Vận Dụng Cho Huyện Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình.
- Về Dân Số, Lao Động Và Việc Làm
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Thực tế đã chứng minh, ở những vùng, đất nước, khu vực có kết cấu hạ tầng phát triển, đặc biệt là các công trình hạ tầng kỹ thuật phát triển thì ở đó có điều kiện
phát triển các ngành chuyên môn hóa, là điều kiện ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào các ngành kinh tế, đảm bảo cho kinh tế hàng hóa phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư. Ngược lại, những nơi có kết cấu hạ tầng kém phát triển thì quá trình hình thành và phát triển của các ngành sản xuất, các vùng chuyên môn hóa cũng như quá trình đưa tiến bộ kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất vì thế cũng bị kìm hãm.
1.2.1.5. Khoa học – công nghệ
Để tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới, cũng như cơ hội mới để các nước đi sau có thể phát triển "rút ngắn" bằng việc chuyển dịch trong nội bộ các ngành thì sự xuất hiện những ngành mũi nhọn của KHCN như điện tử - tin học, sinh học và gen, vật liệu mới và năng lượng mới…đóng vai trò hết sức quan trọng. KHCN có tác động tích cực đến quá trình sản xuất với việc làm tăng năng suất lao động, cải thiện đáng kể hiệu quả sản xuất. Phương thức sản xuất mới với công nghệ tiên tiến vượt trội góp phần làm cho quá trình phát triển bền vững diễn ra mạnh mẽ hơn, môi truòng được bảo vệ, đời sống nhân dân ngày một cải thiện tốt hơn.
Trong từng nội bộ ngành, sự phát triển của KHCN là một trong các nhân tố chủ nông nghiệp, muốn thực hiện được công cuộc phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao thì yếu tố KHCN là không thể thiếu. KHCN làm tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất và thay đổi cả phương thức lao động trong nông nghiệp. Khoa học kỹ thuật đã có những tác động mạnh mẽ về cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, cách mạng về sinh học. Vì vậy mà hàng loạt giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao với hiệu quả kinh tế lớn đã ra đời và được đưa vào sản xuất. Nhờ đó nông nghiệp chuyển sang sản xuất các ngành trồng trọt giá trị và hiệu quả kinh tế cao như cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu và cây sinh vật cảnh... Như vậy, cùng với sự phát triển nhanh chóng của KHCN, những lợi thế của các yếu tố sản xuất truyền thống sẽ giảm xuống, đồng thời xuất hiện những lợi thế so sánh mới liên quan tới hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm được sản xuất ra.
Trong lĩnh vực công nghiệp, nhờ tiến bộ của KHCN các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống bị thu hẹp, kéo theo đó là sự xuất hiện những ngành
khai thác, chế biến nguyên liệu mới thích hợp. Nền sản xuất và công nghiệp truyền thống được thay thế dần bằng các ngành công nghiệp mới và dịch vụ mới với hiệu quả kinh tế cao. Khu vực dịch vụ ngày càng mở rộng so với hai khu vực còn lại của nền kinh tế quốc dân. Giá trị sản xuất và lợi nhuận kinh doanh dựa chủ yếu vào tài nguyên thông tin, đặc biệt là những thông tin về tương lai, về cái chưa biết. Quy mô tiêu dùng của mỗi nước cũng như thế giới không ngừng mở rộng. Chính những tiến bộ khoa học và công nghệ sẽ làm thay đổi cơ cấu và tổ chức vật chất - kinh tế - xã hội của xã hội loài người nói chung, thúc đẩy phát triển và CDCCKTN của mỗi quốc gia.
1.2.1.6. Nhân tố thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố đầu vào, đầu ra của các ngành, các cơ sở kinh tế đều do thị trường quyết định. Do đó, thị trường có tác động đến CCKTN và CDCCKTN theo các khía cạnh sau:
Thứ nhất, thị trường quyết định cả về vấn đề số lượng và chất lượng, cơ cấu và mẫu mã của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Thứ hai, thị trường là nhân tố kích thích, thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy các chủ thể kinh doanh không ngừng đổi mới kỷ thuật - công nghệ và tổ chức quản lý để giành lấy thế mạnh cạnh tranh trên thị trường.
Thứ ba, thị trường có sức ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của cơ sở kinh tế, xu hướng phân công lao động, vị trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, sự điều tiết các quan hệ kinh tế cũng cần đến sự tác động của thị trường. Sự tác động này góp phần vào việc phân bố tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành, các vùng.
Thứ năm, thị trường có sự tác động mạnh mẽ đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô của các nhà sản xuất.
Ngày nay, hòa theo xu hướng chung của thế giới, Việt Nam cũng đang quyết tâm đẩy mạnh công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế, lấy việc mở cửa giao thương với các nước trên thế giới làm động lực để phát triển kinh tế. Môi trường kinh tế thuận lợi sẽ thúc đẩy sự CDCCKT trong nước. Kinh tế quốc tế mang tính cạnh tranh cao, đòi hỏi mỗi quốc gia phải khẳng định thế mạnh của mình và liên tục cập nhật xu
hướng mới để không bị tụt hậu so với quốc tế. Trong bối cảnh này, rõ ràng CCKT của một quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi CCKT của các nước trong khu vực. Những mặt tích cực, tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế và việc cải cách CCKT của các nước có liên quan phải được cân nhắc kỹ khi lựa chọn CCKT cho đất nước mình. Điều này có ý nghĩa to lớn khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) và nhiều tổ chức kinh tế khác.
1.2.2. Cơ chế, chính sách
CDCCKTN của nền kinh tế nhanh hay chậm, phù hợp với xu hướng phát triển hay không tùy thuộc nhiều vào chủ trương chiến lược chuyển dịch và tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Trong quá trình CDCCKTN thì Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định đường lối và chính sách thúc đẩy sự chuyển dịch.
Nhà nước đóng vai trò then chốt trong nhiệm vụ xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm hiện thực hóa các mục tiêu kinh tế - xã hội. Đó thực chất là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực và đầu tư theo ngành, địa phương và theo vùng lãnh thổ. Với vai trò đặc biệt này, Nhà nước có ảnh hưởng lớn tới việc hình thành và xu hướng hoạt động của CDCCKTN.
Trong đa số trường hợp, Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng các cơ sở kinh tế, các ngành hay các lĩnh vực quan trọng có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, đối với một số ngành, lĩnh vực không khuyến khích hoặc không có lợi cho nền kinh tế, Nhà nước hạn chế đầu tư sản xuất. Trong những trường hợp này, vai trò của Nhà nước có tác động lớn đến CDCCKTN hoặc điều chỉnh, tạo ra CCKTN mới trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, trong trường hợp này Nhà nước có thể lạm dụng vai trò tác động của mình, xem nhẹ vai trò của thị trường. Do vậy, sự can thiệp trực tiếp nhiều khi có thể đưa lại kết quả không như mong muốn và gây tác động ngược lại.
Nhà nước có thể khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư (trong và ngoài nước) phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã xác định bằng hệ thống chính sách, pháp luật và các công
cụ khác. Thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, như chính sách về thuế quan, bảo hộ mậu dịch, ưu đãi đầu tư…, Nhà nước có khả năng ngăn cản một cách hiệu quả sự di chuyển các dòng vốn đầu tư hoặc các luồng di chuyển hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia, các ngành hay các vùng lãnh thổ. Qua đó, Nhà nước có thể điều chỉnh, hạn chế, thậm chí ngăn cản quá trình hình thành và CDCCKTN.
Trong vai trò quản lý, Nhà nước sử dụng hiệu quả các đòn bẩy kinh tế được thể hiện trong hệ thống chính sách hoặc vấn đề đào tạo nguồn nhân lực để điều chỉnh, thúc đẩy sự CDCCKTN. Các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát triển kinh tế, cùng với hệ thống pháp luật kinh tế, sẽ tạo môi trường kinh tế thuận lợi và kích thích lợi ích kinh tế để các chủ thể sản xuất kinh doanh theo hướng của Nhà nước. hệ thống chính sách kinh tế như: chính sách đất đai, chính sách về vốn tín dụng, chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách khuyến công, khuyến nông, chính sách tiêu thủ sản phẩm, chính sách xóa đói giảm nghèo... Nếu ban hành kịp thời, đồng bộ và phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định, sẽ có tác dụng làm chuyển biến mạnh mẽ CCKTN. Ngược lại, sẽ giảm động lực, không phát huy hết mọi tiềm năng, thế mạnh của từng vùng cho sự phát triển, sẽ hạn chế và làm chậm quá trình CDCCKTN.
1.2.3. Trình độ phát triển của kinh tế thị trường
Hiện nay, Việt Nam đang từng bước xây dựng và thực hiện nền kinh tế thị trường hiện đại, với một tầm cao mới về chất lượng. Chúng ta xác định nền kinh tế thị trường hiện đại là nấc thang cao trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường, là phương tiện tốt nhất để tạo lập cơ sở và sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Kinh tế thị trường càng hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì sức mạnh kinh tế nó tạo ra càng lớn. Có thể nói, trình độ phát triển của kinh tế thị trường có tác động trực tiếp đến quá trình CDCCKT của mỗi địa phương cũng như cả nước. Nền kinh tế thị trường hiện đại có tác động đến quá trình CDCCKTN cụ thể như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên tính sở hữu hỗn hợp của các chủ thể thị trường. Nghĩa là sở hữu hỗn hợp dựa trên việc chế độ cổ phần
chiếm ưu thế và trở nên phổ biến hơn. Thực tế, hiện nay trong công tác CDCCKTN, xu hướng chung là hướng tới việc cổ phần hóa trong tất cả các ngành. Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đều hướng đến cổ phần hóa trên quy mô lớn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng tính tự chủ trong kinh doanh, tạo động lực trong sản xuất và phát triển. Các doanh nghiệp, công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước cũng lần lượt triển khai thực hiện cổ phần hóa, phần lớn diễn ra ở hai ngành công nghiệp và dịch vụ. Sở dĩ có sự chuyển dịch này xuất phát từ việc đáp ứng trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học, công nghệ và trình độ quản lý, phù hợp với tiến trình phát triển chung hiện nay của nền kinh tế.
Thứ hai, sự tiến bộ của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức là thế mạnh để phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, từ đó tác động trực tiếp vào quá trình CDCCKTN, có thể nói đây là yếu tố vô cùng quan trọng để thúc đẩy nhanh quá trình CDCCKTN. Việc phát triển khoa học - công nghệ giúp cho năng suất lao động tăng cao, làm giảm sức người trong sản xuất, máy móc hiện đại cho ra những sản phẩm chất lượng cao và tương đồng nhau. Ngoài ra, còn tạo được nhiều thuận lợi trong công tác quản lý và kinh doanh.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường hiện đại yêu cầu phải có cơ cấu rõ ràng, trong đó chuyển dịch theo hướng đổi mới tích cực các ngành khác nhau trong nền kinh tế, cụ thể như: công nghiệp - thị trường, hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ cao cấp; bên cạnh đó, khuyến khích phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao. Muốn làm được điều này nhất thiết cần sự kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp, nông thôn với nền tảng công nghiệp và thị trường hiện đại. Hướng tới nền kinh tế với các ngành nghề mới ứng dụng công nghệ cao, đáp ứng được như cầu thị trường trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho quá trình CDCCKT diễn ra thuân lợi hơn.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại được vận hành với thể chế thị trường, thể chế quản lý nhà nước và chế độ quản trị công ty hiện đại. Việc vận hành nền kinh tế theo thể chế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh năng động, giải quyết được mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu tiến bộ trong bối cảnh hiện tại với ảnh hưởng trực tiếp từ quá trình toàn cầu hóa, cách
mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thị trường và xã hội thông tin. Tất cả những
điều này tạo đòn bẩy cho quá trình CDCCKTN diễn ra thuận lợi và hiệu quả.
Như vậy, sự phát triển về trình độ của kinh tế thị trường là nhân tố góp phần vào sự thành công của quá trình CDCCKTN. Điều này khẳng định phải CDCCKTN theo hướng phù hợp theo tình hình chung của nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Có thể nói, nhất thiết phải dựa vào nhu cầu đổi mới của kinh tế thị trường hiện đại để định hướng chuyển dịch một cách phù hợp nhất. Tuy nhiên, bản thân thị trường luôn mang tính rủi ro cao có thể gây ảnh hưởng đến CCKTN và CDCCKTN của một quốc gia. Vì vậy, để phát huy những tác động tích cực và đẩy lùi những tác động tiêu cực chúng ta cần nâng cao vai trò quản lý và điều tiết thị trường của Nhà nước. Luôn đề cao tính phối hợp giữa quản lý nhà nước với quá trình vận hành của thị trường, tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình CDCCKTN.
1.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế. Thương mại và đầu tư quốc tế lại đóng vai trò quan trọng trong cung cấp các đầu vào cho quá trình sản xuất. Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế có tác động lớn tới CDCCKTN. Điều này được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
- Hội nhập quốc tế làm cho luồng thương mại quốc tế mở mang và tác động mạnh đến quá trình xuất nhập khẩu. Từ đó, nó tác động đến cơ cấu đầu tư, dẫn đến làm thay đổi cơ cấu và trình độ sản xuất của các ngành kinh tế.
- Hội nhập quốc tế thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá, thay đổi công nghệ, tiến bộ kỹ thuật. Chuyên môn hoá cũng tạo ra những hoạt động dịch vụ và chế biến mới. Điều đó làm cho tỷ trọng của các ngành truyền thống giảm trong khi đó tỷ trọng của các ngành dịch vụ kỹ thuật mới được tăng trưởng nhanh chóng, dần dần chiếm ưu thế.
- Hội nhập quốc tế thúc đẩy tự do hoá đầu tư và ảnh hưởng mạnh đến thu hút các nguồn vốn quốc tế, qua đó thúc đẩy sản xuất và chuyển đổi CCKTN quốc gia.