Những Nhân Tố Tác Động Đến Sự Biến Đổi Của Quan Hệ Sản Xuất Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam Trong Thời Kỳ Đổi Mới



khía cạnh tiến bộ của QHSX, chứ không chỉ là khía cạnh phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX.

Việc xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN ở nước ta sẽ góp phần làm cho kiến trúc thượng tầng ở nước ta từng bước được củng cố và hoàn thiện. Nó trở thành cơ sở cho sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, làm cơ sở để nhà nước thực hiện phân phối và phân phối lại trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện an sinh xã hội và phúc lợi xã hội tạo ra một xã hội công bằng, bình đẳng trong nền kinh tế thị trường, để đi tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN có vai trò quyết định trong việc củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở nước ta.

Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Trong quá trình đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng luôn kiên trì thực hiện nhất quán đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội IX đến nay, Đảng xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế vừa tuân thủ các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của CNXH và các yếu tố bảo đảm tính định hướng XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX hiện đại, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, v.v.. Kinh tế thị trường định hướng



XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh; thông qua an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Đó chính là nhằm xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN. Có xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN thì mới giữ vững được định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.

Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [33, tr.107] là một trong ba khâu đột phá cho sự phát triển của Việt Nam và nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối” [33, tr.73]. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta không coi nhẹ kinh tế tư nhân, thậm chí khẳng định “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế” [33, tr.74], Đại hội XII nhấn mạnh “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế” [34, tr.103] song cần quán triệt “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [34, tr.103].

Quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời coi việc bảo đảm và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là một trong những nội dung cơ bản để giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường của nước ta. Khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là lựa chọn đúng đắn và phù hợp với yêu cầu, mục tiêu và thực tiễn xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vai trò đó là tất yếu đối với một quốc gia đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo được chế định trong Hiến pháp là hoàn toàn có cơ sở, chế định đó là cần thiết cho sự tồn tại hạ tầng kinh tế và QHSX xã hội chủ nghĩa, là yếu tố định hướng quan trọng cho nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu của chế độ. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cùng với sự ổn định của thể

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam - 9



chế chính trị sẽ là những yếu tố hợp thành niềm tin cho đầu tư và phát triển, tạo điều kiện bình đẳng cho các thành phần kinh tế cùng phát triển.

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo có thể hiểu một cách khái quát nhất theo nghĩa có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN; đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện ở những nội dung cụ thể như: nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu (ngân sách, tín dụng, ngân hàng, an ninh, quốc phòng…) để phát huy vai trò đòn bẩy, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế một cách có hiệu quả; tạo nền tảng, sức mạnh vật chất cần thiết để Nhà nước có thực lực hữu hiệu làm chức năng định hướng cho sự hình thành chế độ xã hội mới - chế độ XHCN, chủ động triển khai các chính sách phát triển kinh tế

- xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện công bằng, xóa đói giảm nghèo, thu ngắn cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân tộc, chăm lo đời sống người lao động có thu nhập thấp, đối tượng chính sách, nhóm yếu thế… Thiếu thực lực vật chất này thì mọi chính sách, mọi biện pháp can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế không có thành quả trong hiện thực. Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước còn có vai trò quan trọng trong việc mở đường, tạo môi trường và điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng XHCN, “dẫn dắt” những thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo chính là đề cao lợi ích chung cho số đông và cho toàn xã hội, hướng đến mục tiêu chung của toàn dân tộc là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo phát triển ổn định và bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo các mục tiêu tốt đẹp của chế độ xã hội XHCN…, khắc phục được những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như chỉ chú trọng bảo vệ lợi ích cá nhân, chạy theo hiệu quả kinh tế là chính, tập trung đáp ứng nhu cầu của đối tượng người giàu, có tiền của, xem nhẹ thậm chí bỏ qua nhu cầu của người nghèo hoặc



những đối tượng yếu thế trong xã hội,.. Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, là công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Có thể nói, QHSX XHCN có vai trò quan trọng, nó tạo ra cơ sở nền tảng cho việc củng cố hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam và giữ vững định hướng XHCN. Đại hội XII vừa qua cũng chỉ rõ, một trong những mối quan hệ lớn cần được quan tâm và giải quyết tốt trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta: “Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [34, tr.102].

2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.2.1. Lực lượng sản xuất

Trong lịch sử nhân loại, quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nói riêng luôn luôn vận động, biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, với sự thay đổi của phương thức sản xuất. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất do nhiều yếu tố tác động trước hết là lực lượng sản xuất.

Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng vận động, biến đổi, phát triển. Sự biến đổi và phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Bởi vì, trong quá trình lao động sản xuất người lao động luôn luôn tìm cách cải tạo công cụ lao động để bớt nặng nhọc và có năng suất cao hơn, đồng thời người lao động cũng luôn tích lũy kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo, trên cơ sở ấy sáng tạo ra các công cụ mới để chinh phục tự nhiên, sáng tạo ra những vật liệu mới, máy móc mới, biến giới tự nhiên thành thiên nhiên thứ hai của mình, đó cũng là quá trình thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển không ngừng. Lực lượng sản xuất là do con người tạo ra, nhưng



nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, vì:

Thứ nhất, lực lượng sản xuất không phải chỉ do một cá nhân tạo ra, nó là sản phẩm tổng hợp của sự hợp tác và phân công lao động của cả cộng đồng tạo ra. Sự hợp tác và phân công lao động ấy không lệ thuộc vào ý muốn của ai cả, là một tất yếu khách quan của sự phát triển của xã hội. Trong cuốn Hệ tư tưởng Đức Mác viết:

Lực lượng xã hội, tức lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và ra đời từ sự hợp tác và phân công lao động quy định cho những cá nhân khác nhau - xuất hiện trước những cá nhân ấy, không phải như một lực lượng kết hợp của bản thân họ, vì bản thân sự kết hợp đó không phải là tự nguyện, mà là tự nhiên; và sự xuất hiện như một lực lượng xa lạ, ở bên ngoài họ, lực lượng mà bản thân họ cũng chẳng biết từ đâu đến và sẽ đi đâu, lực lượng mà do đó họ không chế ngự được và trái lại, lực lượng ấy đang trải qua một chuỗi đặc biệt những giai đoạn và những trình độ phát triển chẳng những độc lập với ý chí ấy và hành động ấy [81, tr.49].

Thứ hai, mỗi một người, một thế hệ không thể lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình, mà kế thừa một cách tự nhiên những lực lượng sản xuất do thế hệ trước để lại, cho dù anh ta có thích hay không thích điều đó. Mác viết:

Cũng chẳng cần phải nói thêm rằng người ta không được tự do lựa chọn những lực lượng sản xuất của mình - những lực lượng hợp thành toàn bộ lịch sử của họ - vì mỗi lực lượng sản xuất, là một lực lượng sản xuất đã đạt được, tức là sản phẩm của hoạt động đã qua [86, tr.657].

Lực lượng sản xuất phát triển liên tục và lần lượt trải qua các trình độ: thủ công, cơ khí, điện khí hóa, điện tử, tự động hóa, tin học hóa.Trình độ thủ công là trình độ thấp, tồn tại trong các chế độ, cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến. Trình độ cơ khí ra đời cùng với sự ra đời của



phương thức sản xuất TBCN, ở trình độ này con người lao động bằng máy móc làm cho năng suất lao động cao, của cải tăng lên không ngừng. Ngày nay, con người đã vươn tới trình độ điện khí hóa, điện tử, tin học hóa…

Tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trước CNTB là tính chất của lực lượng sản xuất mang tính cá nhân tương ứng với nó là trình độ thủ công của LLSX. Đến khi máy móc ra đời, lực lượng sản xuất ở trình độ cơ khí thì tính chất của LLSX mang tính xã hội, do sự phân công và hợp tác trong lao động sản xuất, do vậy, những người sản xuất phải hợp tác, trao đổi sản phẩm cho nhau tạo ra tính chất xã hội của LLSX. Ngày nay, cùng với sự phát triển của LLSX thì tính chất của LLSX ngày càng được xã hội hóa sâu sắc và mang tính quốc tế hóa cao độ.

Cùng với sự phát triển của LLSX thì QHSX cùng vận động, phát triển theo cho phù hợp. Sự phù hợp của QHSX đối với trình độ của LLSX là một tất yếu khách quan nó do trình độ của LLSX quy định. Sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX là một trạng thái mà trong đó QHSX là hình thức phát triển của LLSX. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của QHSX đều tạo địa bàn đầy đủ cho LLSX phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất để đem lại năng suất lao động cao.

Sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX diễn ra theo một quá trình: phù hợp - không phù hợp- phù hợp. Bởi vì, khi tư liệu sản xuất phát triển, người lao động được nâng cao về trình độ làm cho LLSX được nâng lên một trình độ mới, trong khi đó QHSX phát triển chậm hơn vì nó gắn với các thiết chế xã hội, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp, đó là trạng thái mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, mâu thuẫn này ngày càng gay gắt và làm cho QHSX trở thành xiềng xích của LLSX. Một đòi hỏi khách quan là phải xóa bỏ QHSX cũ thiết lập QHSX mới phù hợp với trình độ của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. LLSX lại tiếp tục phát triển đến



một giai đoạn nào đó QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp, do vậy con người lại phải thay đổi QHSX mới cho phù hợp với trình độ mới của LLSX. Vì vậy, việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.

Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta Đảng ta cũng đã ý thức được sự thiếu hụt của chúng ta khi xây dựng CNXH đó là LLSX hiện đại. Từ đó, Đảng có nhiều chủ trương chính sách nhằm thúc đẩy LLSX phát triển như đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu… trong mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng Đảng ta khẳng định đặc trưng về kinh tế là: “có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu” [28, tr.111].

Ngày nay, với sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta đã làm cho LLSX ở nước ta phát triển nhanh chóng. Với quan điểm “đi tắt đón đầu” chúng ta đã ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… Chính điều này, làm cho LLSX ở nước ta phát triển mạnh mẽ, trình độ của LLSX được nâng lên không ngừng.Theo quy luật của sản xuất vật chất, của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì LLSX quyết định sự biến đổi của QHSX, do vậy, khi mà LLSX đã phát triển mạnh mẽ thì đòi hỏi QHSX XHCN cũng phải được điều chỉnh theo để bảo đảm sự phù phợp với trình độ mới của LLSX ở Việt Nam hiện nay.

Tóm lại, sự biến đổi của QHSX XHCN ở Việt Nam hiện nay chịu tác động của nhiều nhân tố, mà trước hết là sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của LLSX.

2.2.2. Kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất, mà trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.



Đặc biệt trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì QHSX XHCN chịu sự tác động to lớn đối với vai trò định hướng của Đảng và quá trình quản lý của Nhà nước.

Đường lối chính trị của Đảng ta là kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), khi xác định đặc trưng kinh tế của CNXH mà nhân dân ta xây dựng nêu rõ: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” [33, tr.70]. Trong đặc trưng kinh tế này đã bao hàm cả yếu tố LLSX và QHSX. Đường lối chính trị này là nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mục tiêu kinh tế của CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Trên cơ sở đó, tác động, ảnh hưởng đến việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển LLSX hiện đại và xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN ở nước ta. Đường lối chính trị của Đảng ta đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN ở nước ta. Điều này được thể hiện, đường lối chính trị của Đảng ta có vai trò rất lớn trong việc hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường, động viên sự sáng tạo, lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm của người lao động. Chính đường lối chính trị này sẽ quy định mục tiêu của sự phát triển kinh tế-xã hội cũng như định hướng phát triển QHSX.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu là xây dựng nước ta thành nước: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [33, tr.70]. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc [33, tr.71]. Như vậy, mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung, mục tiêu của sự phát triển LLSX ở nước ta nói riêng, xét đến cùng đều

Xem tất cả 182 trang.

Ngày đăng: 10/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí