Hệ Thống Các Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Về Du Lịch Tại Tỉnh Bắc

núi gắn liền với các di tích có tiềm năng trong phát triển các dịch vụ du lịch sinh thái trong tương lai.

2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn

Với đặc điểm nổi bật là một trong những địa phương hình thành, mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và là trung tâm vùng Kinh Bắc cổ xưa. Đây thực sự trở thành tài nguyên du lịch thế mạnh của tỉnh với hệ thống tài nguyên du lịch nhân văn hết sức đa dạng và phong phú bậc nhất cả nước. Tiêu biểu cho hệ thống tài nguyên đó phải kể đến:

- Các di tích lịch sử văn hóa

Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 1259 điểm di tích. Trong đó có 428 điểm di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng gồm 191 di tích được công nhận là di tích quốc gia và 237 di tích được công nhận di tích cấp tỉnh. So với các địa phương khác trong cả nước thì Bắc Ninh được đánh giá là tỉnh có số lượng di tích vào loại cao nhất cả nước. Nổi bật trong các di tích của tỉnh là hệ thống đình, chùa, đền, miếu. Đặc biệt trong số hệ thống di tích của tỉnh có 4 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt gồm:

- Chùa Dâu: tên chữ là Diên Ứng tự, Pháp Vân tự hay Cổ Châu tự. Chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30km. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Chùa là một danh lam cổ tự bậc nhất không chỉ xứ Kinh Bắc mà là cả trời Nam. Kiến trúc của chùa còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật, tư liệu quý có giá trị lịch sử, nghệ thuật. Chùa Dâu gắn liền với các sự tích truyền thuyết về Tứ pháp thể hiện khát vọng cao đẹp của cư dân Việt từ ngàn đời nay.

- Chùa Bút Tháp: tên chữ là Ninh Phúc Tự nằm ở bên bờ Nam sông Đuống thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa là một

công trình kiến trúc có quy mô lớn và hoàn hảo của Thế kỉ XVII được bảo lưu nguyên vẹn cho đến ngày nay. Trong chùa còn lưu giữ bảo vật quốc gia tượng Phật Bà Quan Âm thiên thủ thiên nhãn “độc nhất vô nhị” trong hệ thống tượng pháp ở Việt Nam. Ngoài ra các công trình kiến trúc đặc sắc của chùa còn phải kể đến tòa cửu phẩm liên hoa, tòa tháp bút, cầu đá và hệ thống tượng thờ cũng như hoa văn điêu khắc trang trí trong chùa.

- Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý ( Đền Đô ). Vương triều Lý được lịch sử biết đến là vương triều mở đầu khai sáng nền văn minh Đại Việt và kinh đô Thăng Long – Hà Nội ngày nay. Khu di tích nằm ở phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, quê hương của các vị vua triều Lý. Đền còn có tên gọi là Đền Lý Bát Đế - nơi thờ phụng tám vị vua triều Lý. Đền được khởi dựng từ năm 1030 bởi vua Lý Thái Tông khi ngài về quê làm giỗ vua cha Lý thái Tổ. Đền rộng 31.250 m2 với trên 20 hạng mục công trình được chia làm 2 khu vực nội thành và ngoại thành. Tất cả đều được xây dựng công phu, chạm khắc tinh xảo, tài nghệ . Di tích đã và đang trở thành điểm thu hút du khách và là địa chỉ giáo dục truyền thống lịch sử của dân tộc.

- Chùa Phật Tích: tên chữ là Vạn Phúc tự, nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Chùa được hình thành sớm và được xây dựng hoàn chỉnh vào thời nhà Lý. Đây là ngôi chùa tiêu biểu cho hệ thống kiến trúc Phật giáo thời nhà Lý. Trong chùa còn lưu giữ bảo vật quốc gia tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh cổ nhất miền Bắc và nhiều hiện vật có giá trị khác tiêu biểu cho lịch sử, văn hóa thời Lý. Chùa cũng gắn liền với nghệ thuật văn hóa dân gian của vùng quê Kinh Bắc. Hiện nay chùa đã được trùng tu, mở rộng với quy mô lớn kết hợp với hệ thống núi, đồi tự nhiên sẵn có để trở thành khu du lịch văn hóa tâm linh lớn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Ngoài 4 di tích nổi bật nêu trên, trên địa bàn tỉnh còn nhiều di tích quan trọng đã và đang trở thành điểm nhấn trong phát triển du lịch như: Văn miếu Bắc Ninh, Thành cổ Bắc Ninh, Cụm di tích Cổ Mễ với Đền Bà Chúa Kho,

Chùa Dạm (Thành phố Bắc Ninh). Đình Đình Bảng, Chùa Tiêu, Khu lưu niệm Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ (Thị xã Từ Sơn). Cụm di tích vùng Lim, Đình Tam Tảo (Tiên Du). Đình đền Văn Môn (Yên Phong). Đền thờ Lê Văn Thịnh, Đền thờ Cao Lỗ (Gia Bình). Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, Lăng và đền thờ Sĩ Nhiếp, Thành cổ Luy Lâu, Chùa Linh Ứng (Thuận Thành)…[20].

Chính sách phát triển du lịch tại tỉnh Bắc Ninh - 7

- Các làng nghề thủ công truyền thống

Bắc Ninh từ xưa đã nổi tiếng cả nước với nhiều làng nghề thủ công truyền thống. Các làng nghề đều có lịch sử phát triển lâu đời. Làng nghề thủ công ở Bắc Ninh thật sự phong phú, đa dạng từ việc chế biến nông lâm sản, ẩm thực, sản xuất các vật dụng gia đình, chế tạo công cụ lao động đến các sản phẩm mỹ nghệ, nghệ thuật, các sản phẩm phục vụ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, các nghề xây dựng, điêu khắc đình, chùa, đền, miếu… Đến nay , toàn tỉnh có 62 làng nghề, trong đó có 31 làng nghề thủ công truyền thống. Trong số đó hiện có 28 làng nghề phát triển ổn định với 25 làng nghề truyền thống. Đây cũng được coi là thế mạnh để phát triển du lịch của tỉnh. Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Bắc Ninh như: Làng trang dân gian Đông Hồ (Thuận Thành), Làng gốm Phù Lãng (Quế Võ), Làng đúc đồng Đại Bái (Gia Bình), Làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Từ Sơn), Làng tơ tằm Vọng Nguyệt (Yên Phong), Làng dệt Tam Tảo (Tiên Du)… Nhiều làng nghề, nghề thủ công truyền thống ở Bắc Ninh đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tiêu biểu nhất là nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Đây là một làng nghề mà giá trị tinh thần văn hóa cao hơn giá trị kinh tế, là nét tiêu biểu của nghệ thuật hội họa truyền thống dân gian Việt Nam. Tranh Đông Hồ nổi tiếng khắp trong và ngoài nước không chỉ bởi chất liệu đặc biệt với phương pháp in độc đáo mà còn bởi nội dung phong phú. Nhìn vào một bức tranh, người xem có thể cảm nhận được những hình ảnh thân thuộc, gần gũi với đời

sống của người nông dân Bắc Bộ với màu sắc tươi tắn, hình ảnh đường nét tuy đơn giản nhưng rất sống động [20].

- Các loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian

Bắc Ninh là mảnh đất của thi ca, nơi có những làn điệu dân ca quan họ vang, dền, nền, nảy, đằm thắm mượt mà làm say đắm lòng người. Dân ca quan họ Bắc Ninh là đặc trưng nổi bật, đặc sắc được coi là biểu tượng cho văn hóa tinh thần của vùng quê Kinh Bắc. Đây là loại hình nghệ thuật có cách hát không giống với các loại hình dân ca khác nhưng theo nghiên cứu của các nhà văn hóa dân gian, nghệ thuật hát quan họ đã được các nghệ nhân tiếp thu, phát triển từ nhiều loại hình dân ca khác nhau ở các vùng miền trong nước để sáng tạo ra lối hát với đặc điểm và phong cách riêng rất dễ quen thuộc với người dân. Cũng giống như các loại hình dân ca khác, dân ca quan họ không có nhạc đệm kèm theo mà đòi hỏi người hát phải có kỹ thuật khi hát. Hát quan họ có nhiều hình thức hát khác nhau: hát thờ, hát hội, hát thi, hát canh. Ở mỗi hình thức hát khác nhau sẽ có quy định về lề lối, kỹ thuật, nguyên tắc hát khác nhau. Ngoài ra gắn liền với câu ca quan họ còn có các yếu tố văn hóa khác tạo nên không gian văn hóa quan họ đó là trang phục quan họ, ẩm thực quan họ, không gian biểu diễn quan họ và những quy tắc giao tiếp giữa liền anh với liền chị quan họ với những phong tục khác nhau. Một trong những nét văn hóa đặc biệt của văn hóa quan họ là tục kết chạ quan họ. Khi tìm hiểu về văn hóa quan họ, du khách không chỉ được nghe những câu ca quan họ mà còn sẽ tìm hiểu về nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xă của cư dân nông nghiệp vùng châu thổ Bắc Bộ. Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Dân ca Quan họ Bắc Ninh cùng với Ca Trù đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.

Cùng với loại hình nghệ thuật tiêu biểu trên, mảnh đất, con người Bắc Ninh còn lưu giữ kho tàng văn hóa phi vật thể đa dạng. Đó là các loại hình nghệ thuật truyền thống như nghệ thuật Hát Trống quân làng Bùi Xá (Thuận Thành), đây cũng là một di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia. Nghệ thuật chèo, tuồng, ca trù… cũng được phổ biến rộng rãi trong các làng quê [20].

- Các lễ hội truyền thống

Bắc Ninh được coi là xứ sở của lễ hội. Đây là đối tượng du lịch văn hóa tiêu biểu luôn thu hút khách của tỉnh. Lễ hội ở Bắc Ninh được diễn ra quanh năm và tập trung nhất vào mùa xuân. Tính đến nay, trong số khoảng 600 lễ hội lớn nhỏ trên địa bàn tỉnh thì có khoảng 40 lễ hội quan trọng, được duy trì hàng năm. Trong đó có 10 lễ hội lớn có ý nghĩa và có tầm ảnh hưởng đến ngành du lịch như: Hội Lim, Hội Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, Hội chùa Dâu, Hội Đền Đô, Hội làng Đồng Kỵ, Lễ hội làng Diềm… Các lễ hội được tổ chức luôn gắn liền với các di tích lịch sử văn hóa là dịp để tưởng nhớ, tôn vinh các vị danh nhân góp phần giáo dục truyền thống lịch sử của dân tộc. Các lễ hội cũng luôn gắn liền với các sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang đậm bản sắc của cư dân địa phương [20].

- Các tài nguyên du lịch nhân văn khác

Đến với Bắc Ninh, du khách sẽ đến với vùng văn hóa ẩm thực đặc trưng với những món ăn, những đặc sản nổi tiếng của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ như bánh Phu thê (Từ Sơn), bánh Khúc làng Diềm, Nem Bùi, Đậu phụ Trà Lâm (Thuận Thành)…

2.1.3. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh Bắc

Ninh


2.1.3.1.Hệ thống các cơ quan theo chiều ngang (các sở, ngành liên quan)

Thực tế hoạt động du lịch đã chỉ rõ, trong cơ chế thị trường có sự quản lý

của Nhà nước, rất cần sự quản lý điều hành của Nhà nước. Du lịch là hoạt động liên ngành, liên lĩnh vực và xã hội hóa cao. Hoạt động du lịch của một tỉnh

không chỉ là sự quản lý của UBND tỉnh giao cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan chủ quản mà còn liên quan tới các sở ban ngành khác như sau:

- Sở Giao thông vận tải: Quản lý về lĩnh vực giao thông, đi lại, là yếu tố quyết định cho hoạt động di chuyển du lịch.

- Sở Công thương, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch đầu tư: Quản lý về việc cấp nguồn kinh phí để duy trì, tôn tạo, bảo tồn và xây mới các điểm du lịch địa phương.

- Sở Xây dựng: Quản lý về việc xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng xã hội phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng.

- Công an tỉnh: Đảm bảo cho sự an toàn và trật tự xã hội phục vụ cho việc phát triển du lịch.

- Sở Y tế: Đảm bảo sức khỏe cho người dân và du khách khi xảy ra sự cố về sức khỏe, tính mạng ...

Tóm lại, hoạt động du lịch chịu tác động rất lớn về nhiều mặt đối với các ngành khác trong xã hội. Quản lý nhà nước về du lịch không chỉ quan tâm tới riêng hoạt động du lịch mà còn phải quan tâm tới những hoạt động quản lý của các bên liên quan và cộng đồng dân cư tại địa phương.

2.1.3.2. Hệ thống các cơ quan quản lý theo chiều dọc

Theo Luật Du lịch (Trích Điều 73, 74, 75 trong Luật Du lịch năm 2017) và căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch theo chiều dọc từ trung ương đến địa phương gồm có:

- Bộ VHTT& DL;

- Tổng cục Du lịch;

- Sở VHTT&DL tỉnh Bắc Ninh;

- Phòng Văn hóa - Thông tin các huyện, thị xã, TP trực thuộc tỉnh.

2.1.3.3. Cơ quan QLNN trực tiếp về du lịch của tỉnh Bắc Ninh

Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bắc Ninh là cơ quan chủ quản phụ trách QLNN và tham mưu ban hành, thực hiện chính sách về Du lịch trên địa bàn tỉnh. Với 9 phòng chuyên môn và 10 đơn vị sự nghiệp trực thuộc sở. Trong đó trực tiếp thực hiện nhiệm vụ QLNN phát triển du lịch có Phòng Nghiệp vụ du lịch (có 4- 5 biên chế), Trung tâm xúc tiến du lịch (có 12 biên chế). Ở các huyện, thành phố công tác QLNN về du lịch được giao cho Phòng Văn hóa - Thông tin, tuy nhiên nhiệm vụ, chức năng chưa được quy định rõ ràng, cụ thể. Với tiềm năng du lịch của tỉnh hiện nay, các hoạt động liên quan đến công tác QLNN về du lịch chủ yếu do Phòng nghiệp vụ du lịch của Sở VHTT&DL nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với lãnh đạo sở để báo cáo cấp có thể thẩm quyền xem xét Quyết định, có thể trong tương lai không đáp ứng được yêu cầu do số lượng biên chế ít mà khối lượng công việc cần phải thực hiện nhiều theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, đã được UBND tỉnh phê duyệt [26].

2.2. Thực trạng thực thi chính sách phát triển du lịch tại tỉnh Bắc

Ninh


2.2.1. Chính sách phát triển du lịch tại Bắc Ninh

2.2.1.1. Nội dung chính sách phát triển du lịch tại tỉnh Bắc Ninh

Chính sách phát triển du lịch tại Bắc Ninh được thực hiện theo Quyết định số 151/2011/QĐ-UBND ngày 12/12/2011của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011

- 2020 và định hướng đến năm 2030 [27]. Theo đó nội dung cơ bản của chính sách phát triển du lịch như sau:

a) Quan điểm phát triển du lịch

- Phát triển du lịch Bắc Ninh nhanh, tương xứng với tiềm năng, nguồn lực phát triển du lịch của tỉnh.

- Phát triển du lịch phải gắn với việc bảo đảm an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội.

- Phát triển du lịch trong sự phát triển kinh tế xã hội ổn định và bền

vững.

- Phát triển du lịch dựa trên sự phát huy nội lực, sức mạnh tổng hợp của

các ngành, các thành phần kinh tế, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho ngành du lịch nhằm phát huy các tiềm năng, lợi thế của tỉnh.

- Phát triển du lịch gắn với gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

- Phát triển du lịch Bắc Ninh phải đặt trong mối quan hệ với sự phát triển du lịch các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng... đặc biệt là mối quan hệ với thủ đô Hà Nội nhằm tạo nên những sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn khách du lịch.

- Phát triển du lịch Bắc Ninh trong chiến lược phát triển tỉnh Bắc Ninh thành thành phố trực thuộc Trung Ương vào năm 2020.

b) Mục tiêu phát triển du lịch

- Mục tiêu chung:

Một là, Đưa Bắc Ninh trở thành một trong những trung tâm du lịch văn hóa lớn của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và của cả nước, tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh.

Hai là, Tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần vào tăng trưởng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng GDP du lịch, dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và cộng đồng dân cư, tăng nguồn thu ngân sách; hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển.

- Mục tiêu cụ thể:

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 14/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí