Chính Sách Phát Triển Nguồn Nhân Lực 38663


tại các sở, ban, ngành và UBND các cấp; thực hiện cơ chế một cửa liên thông trong cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mã số thuế và khắc dấu cho các doanh nghiệp; tổ chức hội nghị chuyên đề với các nhà đầu tư bàn biện pháp thúc đẩy đầu tư; tổ chức các buổi đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh và doanh nghiệp để thông báo và xác nhận quan điểm và chủ trương của tỉnh đối với công tác thu hút đầu tư. Xây dựng Website của tỉnh và các Sở, Ngành giới thiệu tiềm năng, cơ hội cũng như các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận. Tạo lập lòng tin của doanh nghiệp với chính quyền là chìa khoá trong thu hút đầu tư thành công.

2.3.4.6. Chính sách phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực ngành công nghiệp là tổng thể các tiềm năng lao động của ngành công nghiệp, là nguồn lực con người được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau và sẵn sàng tham gia lao động trong ngành công nghiệp. Nguồn nhân lực ngành công nghiệp được xác định gồm có lực lượng lao động hiện có của ngành và lực lượng lao động tiềm năng cho ngành công nghiệp của tỉnh.

Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực, chính quyền địa phương đã ban hành chính sách ưu đãi, sử dụng, thu hút nhân tài với các mức hỗ trợ cụ thể để khuyến khích đội ngũ cán bộ đi học. Bên cạnh đó cũng có các chế độ chính sách thu hút các chuyên gia giỏi về công tác tại tỉnh. Bắc Ninh là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam ngay từ những năm 1997-1998 đã đưa ra chính sách cụ thể thu hút nhân lực có trình độ chuyên môn cao về công tác tại địa phương và có chính sách khuyến học.

Để tránh xảy ra những áp lực bất lợi đối với người lao động tại các khu công nghiệp tập trung, tỉnh đã quy hoạch và xây dựng các khu nhà ở, tạo điều kiện cho công nhân có điều kiện làm việc tốt, nhằm phát triển bền vững.

Tỉnh quan tâm đến đào tạo nghề, mức tăng dân số lao động có chuyên môn kỹ thuật bình quân giai đoạn 2000 - 2007 tăng từ 22,4% về tỷ lệ trong tổng số lao động trên địa bàn tỉnh, đưa tổng số lao động qua đào tạo đạt 37,8%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 23,5% cao hơn tỷ lệ bình quân của các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiêp, những năm qua tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng và triển khai nhiều chủ trương, chính sách nhằm từng bước phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp như: xã hội hoá giáo dục, xã hội hoá dạy nghề, hỗ trợ cho người lao động ở các khu vực có đất thu hồi học nghề, tuyên truyền và giáo dục để nâng cao nhận thức cho người lao động về vấn đề


đào tạo nghề, mở các chương trình đào tạo nghề gắn với rèn luyện tác phong và kỷ luật lao động,…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Các chính sách này chủ yếu tập trung vào việc nâng cao trình độ, nhận thức cho lao động, đặc biệt là lao động ở các khu vực có đất thu hồi. Những chính sách này đã có hiệu quả nhất định như: mở rộng quy mô đào tạo nghề, nâng cao chất lượng dạy nghề, bước đầu nâng cao nhận thức cho người lao động về học nghề, về tác phong và kỷ luật lao động trong công nghiệp,…

2.3.4.7. Chính sách phát triển công nghiệp bền vững

Chính sách công nghiệp đã góp phần tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Trong đó GTSX công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng khá, thể hiện rõ hiệu quả của chính sách đầu tư vào các KCN, cụm công nghiệp thực sự đi vào cuộc sống. Với các tác động lan toả của nó, sự phát triển công nghiệp đẩy nhanh sự hình thành các khu đô thị mới, tác động tới các vấn đề an sinh xã hội, công bằng và bảo vệ môi trường sinh thái.

Theo quan điểm của tác giả phát triển công nghiệp bền vững sẽ là phát huy các nguồn lực: Đất đai; Con người; Yếu tố truyền thống; Yếu tố phát triển.

Theo đó: sự phát triển công nghiệp bền vững sẽ đảm bảo sự phát triển đồng bộ cả 3 yếu tố: Bền vững về kinh tế; Bền vững về văn hoá-xã hội; Bền vững về môi trường (xem Hình 2.1)


Hình 2 1 Các yếu tố phát triển công nghiệp bền vững Tuy nhiên các yếu tố 1


Hình 2.1 Các yếu tố phát triển công nghiệp bền vững

Tuy nhiên, các yếu tố tham gia quá trình phát triển luôn là các yếu tố động, cần có chính sách nhằm hình thành được các ngành công nghiệp chủ lực


và các sản phẩm có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Quy mô các doanh nghiệp không ngừng mở rộng và tăng cường đầu tư chiều sâu; hiệu quả sử dụng đất, sử dụng các nguồn lực ngày càng cao. Tỷ trọng giữa các ngành trong cơ cấu GDP của nền kinh tế có sự phát triển, chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiẹp và dịch vụ. Hiệu quả sử dụng tài nguyên ngày một nâng cao. Những hoạt động gây ô nhiễm môi trường cần được xã hội lên án và dần bị lại bỏ, tiến tới khắc phục triệt để.

2.3.5. Đánh giá chung về chính sách phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997-2007

2.3.5.1. Thành tựu đạt được

Nhờ có những chính sách phát triển CN phù hợp, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh đã bước đầu đạt được những thành tựu quan trọng. Cụ thể là GDP có xu hướng tăng nhanh, các khu vực kinh tế đều duy trì được sự tăng trưởng đều đặn, không có khu vực nào biến động nghịch. Nhiều tư duy mới làm thay đổi quan điểm về hoạch định chính sách và cách làm trong sản xuất công nghiệp. Có thể nói, các chính sách phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh thời gian qua đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Chính sách phát triển công nghiệp địa phương đã tác động thúc đẩy phát triển các khu vực sản xuất, bao gồm cả khu vực làng nghề truyền thống và các khu công nghiệp.

Thành công của chính sách phát triển CN đã đem lại những thành tựu cơ bản cho công nghiệp Bắc Ninh thể hiện ở những nội dung cụ thể:

- Góp phần phát huy đa dạng nguồn vốn trong đầu tư, thu hút được số lượng lớn nguồn vốn từ bên ngoài cho phát triển.

- Cơ cấu ngành công nghiệp có sự chuyển định theo hướng hiện đại, nhất là trong giai đoạn 2003-2007; phát huy lợi thế so sánh đối với các nhóm ngành có ưu thế; phát triển được một số doanh nghiệp thuộc nhóm ngành mới và nhóm ngành sử dụng công nghệ cao.

- Góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí trung gian và nâng cao năng suất lao động. Mức tăng năng suất lao động trong công nghiệp chế biến (tính theo GDP) tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP hàng năm. Đồng thời mức tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2003-2007 đạt 20,2%, cao hơn giai đoạn 2002 là 14,5%.


2.3.5.2. Những hạn chế

Bên cạnh những thành tựu nhất định, nhưng trong hơn 10 năm tập trung triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp, các chính sách được đề ra vẫn còn bộc lộ một số hạn chế chủ yếu sau đây:

* Về quan điểm xây dựng chính sách:

Cách thức xây dựng chính sách của Bắc Ninh chủ yếu được xây dựng theo kiểu mệnh lệnh, tập trung từ trên xuống, chu trình hoạch định chính sách gần như đặt hệ thống DN chỉ là “đối tượng điều chỉnh” của các quyết định chính sách, chứ không phải là “chủ thể”, hay “đối tượng thụ hưởng”dẫn đến nảy sinh một số bất cập. Khâu yếu trong chính sách hiện nay là vấn đề điều tiết và sử dụng các công cụ hỗ trợ để điều tiết các hoạt động của DN. Chính sách cho phát triển CN chưa đặt sản xuất trong chuỗi giá trị hàng hóa, không chỉ trong một ngành, mà trong toàn bộ nền kinh tế của tỉnh, đặt trong bối cảnh khu vực và toàn cầu.

Việc xây dựng chính sách chưa gắn với quá trình đánh giá chính sách một cách khoa học, nên việc điều chỉnh các chính sách chưa sát hợp với tình hình thực tế hoặc chưa sát với mục tiêu đề ra.

Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thực tiễn trong quá trình đổi mới làm cho việc xây dựng chính sách khó đáp ứng được tình hình mới, các chính sách dễ bị lạc hậu, khó thực thi.

* Về tổ chức thực hiện chính sách:

Nhìn chung, hệ thống chính sách phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Một số chính sách hiện có chưa bảo đảm tính toàn diện và nhất quán. Trong thực thi chính sách, nhiều vấn đề còn bất cập. Hiện tượng vi phạm hay lạm dụng chính sách vì lợi ích cục bộ còn tồn tại. Hơn nữa, một số điểm trong các chính sách gây ra những trùng lắp hay mâu thuẫn. Điều đáng chú ý là một số chính sách chất lượng của nó chưa cao nên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.

Chất lượng của một số chính sách còn thấp. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với thực tế cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, nhiều ngành chưa kịp thời thay thế, sửa đổi những quy định về không còn phù hợp; chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác động giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã


hội. Hạn chế về chính sách cả chất lượng, thiếu số lượng, được đánh giá là một trong những yếu tố kìm hãm việc hiện thực hoá những chủ trương và quan điểm cơ bản của Nhà nước, của tỉnh. Khâu thực hiện chính sách chưa nghiêm và thiếu kỷ luật tạo ra những tiêu cực làm lãng phí nguồn lực công và sai lệch mục tiêu ban đầu.

(1)- Nhóm chính sách thu hút đầu tư phát triển công nghiệp và nhóm chính sách xây dựng môi trường kinh doanh chưa có tác động đủ mạnh để thúc đẩy chuyển đối cơ cấu ngành công nghiệp theo xu hướng mới.

Trong tình hình mới cần rà soát lại các quy hoạch, kế hoạch nhằm kịp thời điều chỉnh các chính sách cho phù hợp. Các ngành điện tử thiết bị máy móc chính xác chiếm tỷ lệ thấp, chưa khai thác lợi thế so sánh để hiện đại hóa công nghiệp địa phương. Cơ cấu vốn đầu tư theo vùng vẫn có sự bất hợp lý, đặc biệt tạo nguồn vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội chưa cao. Chưa tạo ra được môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi, có tính cạnh tranh cao, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI mới đạt mức khá, chênh lệch giữa xếp hạng môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh về môi trường kinh doanh khá nhiều. Điều đó cho thấy việc thu hút đầu tư dựa vào lợi thế sẵn có như điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi. Chính sách chưa thúc đẩy phát triển công nghiệp mũi nhọn, tác động lan toả còn hạn chế.

(2)- Nhóm chính sách hỗ trợ tiếp cận đất đai cho doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, tồn tại nhiều vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính rườm rà; sự phối hợp trong thực hiện chính sách để phát huy tính đồng bộ giữa các Sở, Ban ngành, các cấp chính quyền địa phương trong quản lý đầu tư và quản lý đất đai còn kém hiệu quả. Chưa thực sự coi giải quyết những khó khăn vướng mắc cho nhà đầu tư trong quá trình tiếp cận đất đai là yếu tố quan trọng, tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng. Chưa kịp thời điều chỉnh chính sách trước những thay đổi của tình hình thực tế.

(3)- Nhóm chính sách đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết. Thực tế cho thấy quá trình đào tạo đang chưa theo kịp được thực tế phát triển của các KCN, đặc biệt là đào tạo công nhân kỹ thuật. Trong số lao động đang làm việc trong KCN có 55-60% lao động tại địa phương, trong số đó lao động đã được đào tạo tại các trường dạy nghề trong tỉnh chỉ chiếm 21,5 %, còn lại là các lao động do chính các doanh nghiệp tự đào tạo.


Chất lượng và số lượng đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của các Khu công nghiệp. Bởi lẽ các chính sách phát triển nguồn nhân lực chưa gắn với việc tuyển dụng của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp, dẫn đến tình trạng cung không gặp cầu; ngành nghề, trình độ và phương pháp làm việc chưa phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, doanh nghiệp khó tuyển dụng lao động, còn học sinh ra trường thì không xin được việc làm.

Dịch vụ tuyển dụng lao động phục vụ cho các KCN chưa phát triển. Mặc dù tỉnh có chủ trương khuyến khích các nhà đầu tư tuyển dụng lao động địa phương nhưng dịch vụ tuyển dụng và cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trong KCN hiện còn đang trong tình trạng khá manh mún.

Nguyên nhân của hạn chế nói trên vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan: Do những hạn chế trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện chính sách; những yếu tố khách quan như: xuất phát nền kinh tế thấp về chất lượng nguồn nhân lực, lao động chủ yếu ở khu vực nông thôn, tốc độ phát triển nhanh của ngành công nghiệp,…

(4)- Nhóm chính sách khoa học công nghệ, phát triển bền vững:

Chính sách KH-CN là một trong các chính sách thúc đẩy đầu tư công nghiệp, mặc dù được triển khai và thực hiện qua nhiều năm nhưng vẫn còn ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Chưa định hướng cụ thể nhằm tạo dựng ngành CN mũi nhọn, công nghiệp chủ lực, công nghiệp phụ trợ, để phát huy và phát triển khoa học công nghệ, nên các ngành công nghệ cao vẫn còn hạn chế, chủ yếu là các nhà đầu tư từ bên ngoài. Bên cạnh đó do chưa tập trung vào các chiến lược phát triển khoa học công nghệ theo hướng bền vững nên tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vẫn là vấn đề gây bức xúc. Nguyên nhân một phần do phát triển công nghiệp chưa chú trọng đến lựa chọn công nghệ, sản xuất tăng nhanh, nhưng chưa đầu tư thoả đáng tới bảo vệ môi trường. Đây cũng chính là một trong nhiều thách thức trong phát triển công nghiệp làng nghề: giấy, thép, đồ gỗ,.. trong tương lai.

Những hạn chế, yếu kém trên đang là lực cản lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội cũng như quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Bắc Ninh những năm qua.

2.3.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Ngoài những nguyên nhân như: kinh tế của tỉnh có điểm xuất phát thấp, hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội còn yếu kém, giá cả thị trường luôn biến động,


không ổn định,… song chủ yếu là do những nguyên nhân chính sau đây:

Thứ nhất, Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thực tiễn trong quá trình đổi mới làm cho việc xây dựng chính sách khó đáp ứng được tình hình, các chính sách đã ban hành dễ bị lạc hậu, khó thực thi.

Hai là, tư duy chính sách cũng như trình độ, năng lực của các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách ở địa phương còn nhiều hạn chế.

Ba là, sự hình thành hệ thống pháp luật một cách đồng bộ chưa đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển; đồng thời chính nó đã góp phần không nhỏ đến sự minh bạch, kỷ cương trong quá trình thực thi chính sách.

Bốn là, sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ quản lý, thực thi chính sách làm nảy sinh các tiêu cực trong quá trình triển khai, làm cho hiệu quả của chính sách giảm sút.

Năm là, Nguồn lực kinh tế của tỉnh còn hạn chế, nên trong quá trình hoạch định chính sách chưa mạnh dạn đề ra các giải pháp mạnh, các giải pháp dài hạn nhằm tạo sự ổn định của chính sách trong quá trình hội nhập.

2.3.5.4. Bài học kinh nghiệm

Nghiên cứu thực tiễn hệ thống chính sách phát triển CN của tỉnh Bắc Ninh đã cho thấy một số bài học kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp địa phương cụ thể như sau:

Thứ nhất, về xây dựng chính sách:

Có chủ trương, định hướng đúng được triển khai đồng bộ bằng các Nghị quyết của cấp uỷ đảng đến chính quyền và toàn thể nhân dân là khâu quan trọng nhất. Nó đã tạo ra sự đồng thuận, nhất quán trong quá trình triển khai thực hiện. Những bước đi phù hợp bằng các chính sách đối với từng lĩnh vực cụ thể chính là chìa khoá của sự thành công.

Trong giai đoạn vừa qua Bắc Ninh đã xây dựng được hệ thống chính sách nói chung và chính sách phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh nói riêng khá đồng bộ. Trình độ xây dựng, hoạch định chính sách đã được nâng lên một bước cả về số lượng và chất lượng. Việc triển khai tổ chức thực hiện, việc tổng kết đánh giá đúc rút kinh nghiệm được tiến hành thường xuyên. Đội ngũ những người hoạch định chính sách cũng như đội ngũ cán bộ nói chung của nền kinh tế được nâng cao và trưởng thành hơn so với trước.


Chiến lược phát triển công nghiệp của mỗi vùng lãnh thổ được phản ánh dựa trên các mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp mà chính quyền địa phương đã đề ra. Để xem xét chiến lược cần phải tiến hành xem xét mục tiêu, mối quan hệ ưu tiên, các chính sách có liên quan của vùng lãnh thổ và các mối quan hệ tương tác giữa các chính sách như thế nào phát triển công nghiệp cần thiết phải kết hợp một cách hữu cơ giữa phát triển kinh tế - xã hội với chính sách phát triển từng ngành và chiến lược phát triển lãnh thổ, quốc gia và quốc tế. Chính sách CN phải xây dựng dựa trên phân tích tình hình thế giới và vị trí hiện tại và tương lai của địa phương trong bối cảnh đó. Thực tế cho thấy không thể lập chính sách chỉ dựa trên nhu cầu của địa phương.

Chính sách công nghiệp phải mang tính gián tiếp và hướng dẫn chứ không mang tính trực tiếp và bắt buộc. Chính quyền địa phương phải tạo ra các công cụ và kênh chính sách thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài dễ tiếp cận

Thứ hai, về quy hoạch phát triển ngành công nghiệp:

Bắc Ninh từ một tỉnh có trình độ phát triển thấp, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh cần có những “điểm nhấn”, lựa chọn ngành mũi nhọn, KCN mũi nhọn, để tập trung đầu tư phát triển, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, gây lãng phí. Chính sách chỉ nên tập trung vào một hoặc hai ngành then chốt mà địa phương có lợi thế để phát triển

Tỉnh cần đẩy mạnh những ngành công nghiệp có lợi thế so sánh động. Đó là những ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao nhằm đạt được một mức cạnh tranh trên quy mô quốc gia hay quốc tế nhất định. Ngay cả trong mỗi ngành công nghiệp mũi nhọn, những quá trình sản xuất và sản phẩm mà các doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả cao cũng hạn chế về số lượng. Điều cốt lõi là xác định được mục tiêu chính sách một cách chính xác và có giới hạn cho từng ngành.

Thứ ba, về từng nhóm chính sách phát triển CN:

Hệ thống chính sách phải được xây dựng trên cơ sở đồng bộ và nhất quán với chiến lược phát triển chung của toàn tỉnh. Khi xây dựng chính sách cho từng lĩnh vực hoặc từng ngành; đồng thời, có sự gắn kết các nhóm chính sách này theo quan điểm hỗ trợ và có tính liên kết cao.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 13/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí