bình diện chính trị - an ninh. Nếu so sánh với Cộng đồng Châu Âu (EC), chú trọng đến liên kết kinh tế rồi đến hợp tác chính trị - an ninh nhằm tạo ra một Châu Âu thống nhất, với nền hòa bình bền vững thì ASEAN lại chú trọng đến hợp tác chính trị - an ninh để phát triển liên kết kinh tế. Sau khi có sự cải thiện cơ bản trong quan hệ với các nước Đông Dương qua việc ba quốc gia trên lần lượt gia nhập ASEAN thì tổ chức khu vực này đóng vai trò là hạt nhân của tiến trình hợp tác không chỉ trong tiểu khu vực Đông Nam Á mà rộng ra toàn Đông Á và Châu Á - Thái Bình Dương.
Thành tựu nổi bật trong hợp tác chính trị của ASEAN là việc tạo dựng được môi trường an ninh nội bộ ổn định cho phát triển hợp tác kinh tế qua các thiết chế như hội nghị sau hội nghị bộ trưởng (PMC) đặc biệt là sáng lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) như một cơ chế bảo đảm an ninh đối ngoại bao trùm toàn khu vực. Cuộc họp mặt đầu tiên của ARF tại Bangkok, tháng 7/1994 đã thu hút sự tham gia của các nước lớn trong khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Australia và cả tổ chức EC. Đây là thành công lớn của ASEAN và thành công này của ASEAN cũng là một nhân tố thuận lợi, thúc đẩy việc tạo dựng môi trường hợp tác ổn định trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay, vì hòa bình và phát triển của khu vực.
Ngoài các nhân tố thuận lợi thông qua mối liên kết về chính trị, sự tăng cường thúc đẩy liên kết kinh tế đang chiếm vị trí rất quan trọng, đặc biệt với sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Sáng kiến này đã thể hiện quyết tâm của lãnh đạo các nước ASEAN trong việc nâng cấp và phát triển các mối quan hệ kinh tế, đưa quan hệ kinh tế trong nội khối đi vào chiều sâu, ngày càng mở rộng và tương xứng với tiềm năng to lớn của thị trường khu vực.
Về thuế quan, ASEAN đưa ra mục tiêu giảm thuế, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thuế quan đối với tất cả các hàng hóa lưu chuyển trong nội khối và cũng tiến tới xóa bỏ hạn ngạch cùng các hàng rào phi thuế quan. Các nước ASEAN
đã ký Hiệp định khung về dịch vụ (AFAS) nhằm tăng cường hợp tác trong thương mại dịch vụ và thực hiện tự do hóa nhanh trong lĩnh vực dịch vụ. ASEAN cũng đã thực hiện chương trình thúc đẩy đầu tư qua Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), ký tháng 10/1998 và Hiệp định khung về hợp tác công nghiệp (AICO). Hai Hiệp định khung này đang đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho tiến trình AFTA và AFAS. Thông qua quá trình liên kết kinh tế, trong nhóm nước ASEAN đã hình thành các tam giác, tứ giác phát triển, phát huy được một số thế mạnh của mỗi nước, tiêu biểu là tam giác Singapore
- Joho của Malaysia - Quần đảo Riau của Indonesia. Tam giác này đã được hình thành và phát triển trên cơ sở hợp tác dựa vào lợi thế công nghệ cao của Singapore cùng với tài nguyên và nguồn nhân lực của hai nước còn lại. Ngoài ra còn có tam giác Phuket (Thailand) - Bắc Malaysia và Đảo Sumatra (Indonesia) có mức tăng trưởng kinh tế cao nhờ sự hợp tác khai thác ưu thế của mỗi bên về tài nguyên khoáng sản phong phú, mạng lưới giao thông thuận tiện, nông nghiệp phát triển và nguồn lao động dồi dào.
Trong tương lai, AFTA sẽ phát được phát triển thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), như một trụ cột cùng với hai trụ cột khác là Cộng đồng an ninh (ASC) và Cộng đồng văn hóa - xã hội (ASCC), tiến tới hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 đã được thông qua tại Hội nghị Bali, Indonesia, tháng 10/2003. Thành tựu trong hợp tác kinh tế của ASEAN không những thúc đẩy liên kết và tăng trưởng kinh tế nội khu vực mà còn tạo cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế với các đối tác trong toàn Đông Á và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Thông qua những yếu tố thuận lợi về chính trị và kinh tế như trên, có thể thấy rằng hợp tác phát triển kinh tế của ASEAN đang diễn ra theo chiều hướng thuận lợi. Tiến trình tự do hóa kinh tế - thương mại với AFTA đang bước sang giai đoạn kết thúc với việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan và xây dựng chương trình hành động chung, thúc đẩy hợp tác kinh tế toàn diện.
Tuy tỉ trọng thương mại với bên ngoài khối vẫn chiếm đa số nhưng khối lượng chu chuyển thương mại nội khối có xu hướng tăng mạnh. Chẳng hạn, trong giai đoạn từ 1990 đến năm 2000, tỉ trọng giao dịch nội khối đã tăng từ 17,8% lên 22,3%, người dân trong khối đã được hưởng lợi từ việc giảm giá hàng hóa, trung bình mỗi năm 20%, cho phép tiết kiệm trung bình hàng năm 27 tỷ USD 1. Cộng đồng kinh tế ASEAN đang trên đường phát triển từ ý tưởng đến hiện thực. Các sáng kiến trong khuôn khổ hợp tác giữa ASEAN với các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc (khuôn khổASEAN +) cũng đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ và có tác động tích cực và quan trọng đến việc tạo lập bối cảnh chính trị ổn định và phát triển kinh tế năng động của khu vực. Những kết quả tốt đẹp của việc thực hiện cơ chế ASEAN + cũng là một thành công nữa của ASEAN, là nhân tố thuận lợi để thúc đẩy ý tưởng về một Cộng đồng Đông Á hội nhập sâu về kinh tế, tạo nền tảng cho liên kết chính trị và văn hóa xã hội, từ đó nâng cao vị thế của ASEAN trên trường
quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối với Asean những năm đầu thế kỷ XXI - 1
- Chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối với Asean những năm đầu thế kỷ XXI - 2
- Sự Phát Triển Mạnh Mẽ Của Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Trong Khu Vực:
- Sự Phục Hưng Của Nước Nga Dưới Thời Tổng Thống Putin:
- Liên Bang Nga Và Định Hướng Tăng Cường Hợp Tác Với Các Nước Asean Và Đông Á
- Sự Triển Khai Chính Sách Đối Ngoại Của Nga Với Asean Trong Thập Niên Đầu Thế Kỷ Xxi
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
1.3.2 Những khó khăn và thách thức đối với ASEAN hiện nay:
Bước sang thế kỷ XXI, ngoài những thuận lợi của môi trường quốc tế và những thành tựu to lớn đã đạt được, thúc đẩy mạnh mẽ liên kết chính trị và kinh tế để tiến tới Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 thì ASEAN hiện nay cũng đang tồn tại một số khó khăn và đối mặt với nhiều thách thức. Trước hết, đó là sự không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội. Nhóm các nước thành viên cũ của ASEAN, đặc biệt là Singapore và Malaysia có thu nhập đầu người cao hơn nhiều lần so với nhóm nước mới gia nhập như Laos, Campuchia, Myanmar, Việt Nam. Công nghệ, giáo dục đào tạo… cũng có sự
—————–––
1. [17, tr. 82 - 83]
chênh lệch lớn. Mức độ giàu nghèo có sự khác biệt lớn cũng đã cản trở đến quá trình liên kết và hợp tác bình đẳng giữa các thành viên, dẫn tới nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sức mạnh và tốc độ phát triển chung của khu vực.
Sự khác biệt về chế độ chính trị xã hội của một số quốc gia trong ASEAN, như Việt Nam, Laos hay Myanmar với các thành viên khác của ASEAN phản ánh hệ thống chính trị, quan điểm và quan hệ chính trị đối ngoại khác biệt nhau và cũng thể hiện sự thiếu đồng nhất về thế giới quan, nhận thức, giá trị và lợi ích trong quan hệ đối ngoại. Từ đó dẫn đến sự khác biệt trong việc lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên, hoạch định chính sách và phương thức tiến hành… của quá trình hợp tác khu vực.
Một thách thức đối với ASEAN hiện nay là một số nước thành viên gặp phải các khó khăn nội bộ đã gây ảnh hưởng đến tốc độ liên kết và mức độ hợp tác của Hiệp hội. Chính sách ưu tiên đối nội khác nhau trong các nước thành viên dẫn đến việc không ít dự án và chương trình hợp tác đã được thông qua, nhưng lại bị trì trệ trong triển khai thực hiện và không ít nước thành viên đã tìm kiếm lối đi riêng có lợi cho mình hơn là có lợi chung cho Hiệp hội. Hay nói cách khác, sự gắn kết nội bộ trong ASEAN hiện nay vẫn đang tồn tại sự lỏng lẻo và thiếu đồng thuận.
Thách thức khác đối với ASEAN đến từ chính các đối tác đối thoại của ASEAN. Nó đặt ASEAN trước sự cần thiết phải vừa tăng cường sự hợp tác này, mở rộng thêm ra nhiều lĩnh vực, nhưng đồng thời phải giữ vai trò chủ động thì mới có thể tranh thủ được cái thuận lợi và hạn chế được tác động bất lợi đối với ASEAN cũng như đối với một số thành viên. Chính sách hai mặt của các đối tác này đối với ASEAN luôn bao hàm ý đồ gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN, hoặc ít nhất giữa một số thành viên nhất định, để từ đó tạo dựng vai trò ảnh hưởng có lợi cho chính họ, đặc điểm này thể hiện trong việc tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông giữa một số nước ASEAN với Trung Quốc, đây là khó khăn lớn và khó giải quyết giữa các nước thành viên của
ASEAN với nhau cũng như ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác của cơ chế ASEAN + 3, trong đó Trung Quốc là một đối tác quan trọng.
Khó khăn và thách thức đối với ASEAN còn đến từ môi trường chính trị và an ninh quốc tế. Trong khu vực Đông Á, hiện vẫn tồn tại những mâu thuẫn, tranh chấp và tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn trong và ngoài khu vực như những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong vấn đề chủ quyền trên biển, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên… Do vị thế và vai trò quan trọng của các nước lớn nên sự vận động của những mâu thuẫn trên sẽ ảnh hưởng và tạo ra thách thức, tác động đến quan hệ của ASEAN với các nước lớn cũng như quan hệ giữa các thành viên ASEAN với nhau. Ngoài ra, khủng bố, toàn cầu hóa và những nguy cơ an ninh phi truyền thống đòi hỏi ASEAN phải có cách tiếp cận mới trong việc gắn sự phát triển năng động và bền vững của ASEAN với việc quan tâm giải quyết nhũng nguy cơ và thách thực mới đối với ASEAN nêu trên. Trên con đường phát triển hiện nay và trong tương lai, đã đến lúc ASEAN không chỉ thể hiện vai trò và tác dụng thiết thực trong mối liên kết mọi mặt trong nội khối, mà còn phải tiến lên đóng vai trò quan trọng và xứng đáng hơn trong đời sống chính trị và kinh tế của khu vực Đông Á và trên thế giới.
1.4. Nước Nga bước vào thế kỷ XXI
1.4.1 Đặc điểm, tình hình Liên bang Nga thập niên đầu thế kỷ XXI:
Liên bang Nga, đất nước có diện tích lớn nhất thế giới, với hơn 17 triệu km2, trải dài trên 11 múi giờ và hai Châu lục Á - Âu. Dân số Nga năm 2009 là hơn 140 triệu người, bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, thu nhập đầu người theo sức mua (PPP) năm 2009 là 14.700 USD.
Sau khi Liên Xô tan rã, chiến tranh lạnh kết thúc, Liên bang Nga đã rơi vào một thời kỳ hỗn loạn kéo dài gần 10 năm. Các chuyên gia kinh tế nước ngoài, chủ yếu là người Mỹ đã được mời đến để giúp tư vấn và vạch ra kế hoạch chấn hưng kinh tế, cải cách thể chế bằng ―liệu pháp sốc‖ cùng với việc mở rộng quyền tự do, thực hiện dân chủ trong chính trị thông qua mô hình chính trị đa đảng. Hậu quả là sau thời gian cải cách ấy, nước Nga hầu như không còn hình dáng của một đất nước kế thừa siêu cường Liên bang Xô viết trước đây. Về kinh tế, vào cuối thập niên 1980, giá trị tổng sản phẩm của Liên Xô gấp 3 lần Trung Quốc, thì đến cuối thập niên 1990, chỉ tiêu này đã bị đảo ngược - Trung Quốc gấp 3 lần Nga 1. Về chính trị, sự xung đột giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp đã đưa đất nước đến bờ vực tan rã do sự đe dọa tính thống nhất quốc gia. Trong quan hệ đối ngoại, nước Nga cố gắng hội nhập với thế giới tư bản phương Tây với vị thế rất yếu kém và thụ động, chưa thể là một đối tác bình đẳng.
Từ năm 1999, khi Putin lên làm Thủ tướng rồi sau đó trở thành Tổng thống vào năm 2000, nước Nga đã dần đi vào ổn định và phát triển, mặc dù đã phải thừa hưởng một di sản kinh tế và chính trị sa sút và bất ổn. Tổng thống Putin trong hai nhiệm kỳ của mình đã đề ra chiến lược xây dựng một xã hội hậu công nghiệp dựa trên ―nền kinh tế thị trường xã hội‖ ở nước Nga và ông cũng đã khẳng định tiếp tục đường lối cải cách theo hướng thị trường và xây dựng xã hội dân chủ mà Tổng thống tiền nhiệm Yeltsin đã tiến hành. So với chính sách của Yeltsin, về cơ bản không có thay đổi, nhưng Tổng thống Putin đã tiến hành hàng loạt các điều chỉnh về chính trị, kinh tế, xã hội và đối ngoại. Những bước đi và phương pháp cải cách của chính quyền Tổng thống Putin tỏ ra thận trọng nhưng cương quyết hơn so với chính sách của chính quyền trước đó và sự cải cách ấy tập trung vào vai trò điều tiết vĩ mô
–––––––––––––
1. [17, tr. 52]
của Nhà nước với mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân, duy trì sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế, khẳng định trọng tâm là phát triển kinh tế và ổn định xã hội, nhằm từng bước tăng cường và khôi phục lại vị thế của nước Nga.
Về chính trị đối nội, chính phủ Nga thực hiện chính sách xác lập quan hệ hợp tác mang tính xây dựng giữa chính phủ và Đuma quốc gia, điều chỉnh hệ thống pháp luật của Chính phủ liên bang và của các địa phương theo hướng tăng cường thể chế liên bang với hệ thống quyền lực trực tiếp của Tổng thống, thông qua các đặc phái viên của Tổng thống tại các tỉnh. Ngoài ra, chính phủ thực hiện chính sách hạn chế sự can dự của các tài phiệt kinh tế vào các công việc chính trị quốc gia và giành lại các phương tiện truyền thông từ tay các nhà tài phiệt cũng như mạnh tay trấn áp các hoạt động tội phạm của maphia và các vụ tham nhũng của các quan chức chính phủ.
Về kinh tế, Nga tiếp tục cải cách kinh tế theo kinh tế thị trường nhưng từ bỏ mô hình ―chủ nghĩa tự do mới‖ được áp dụng dưới thời Tổng thống Yeltsin, đồng thời tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế. Nhà nước phải nắm giữ các ngành kinh tế quan trọng và quản lý có hiệu quả một nền kinh tế quốc dân thống nhất, tránh việc tư nhân hóa ồ ạt và tình trạng vô chính phủ đã diễn ra trước đó. Nhà nước xác định rõ vai trò của mình trong việc điều tiết nền kinh tế theo nguyên tắc ―nhà nước ở mức cần thiết và tự do ở mức cần thiết‖. Các chính sách của chính phủ tập trung vào các biện pháp giải quyết những vấn đề cấp bách đang đặt ra cho nền kinh tế, trước hết là kích thích đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện chính sách công nghiệp tích cực theo hướng ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp then chốt như công nghiệp nặng, năng lượng, công nghiệp quốc phòng… Hướng cải cách khác là tài chính, chính phủ Nga đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng một hệ thống tài chính có hiệu lực thông qua việc cải cách hệ thống thuế, kiểm tra chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả vốn ngân sách với vai trò là
công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của nhà nước, đồng thời giải quyết nhanh chóng và triệt để tình trạng nợ lương của công chức và công nhân lao động, góp phần ổn định xã hội, đưa nền kinh tế Nga tăng trưởng và tham gia tích cực vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Về chính sách đối ngoại, sau khi lên cầm quyền, Tổng thống Putin đã thực hiện chính sách ngoại giao mới. Theo đó, ông đã xác định tiêu chuẩn và nội dung thiết yếu thuộc các lĩnh vực an ninh quốc gia, kinh tế đối ngoại, quốc phòng, thông tin và giao lưu văn hóa. Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga thời kỳ này được xác định là phải gắn bó và kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ lâu dài là phát triển đất nước vì lợi ích quốc gia dân tộc. Việc điều chỉnh chính sách đối ngoại như trên đã cho thấy ý tưởng của Nga là theo đuổi một chính sách đối ngoại thực dụng và uyển chuyển hơn. Trong quan hệ với phương Tây, Nga theo đuổi chính sách vừa hợp tác, vừa cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng nhau mà không phải cố gắng bằng mọi cách để hội nhập vào thế giới phương Tây như thời gian trước. Đối với các nước thuộc CIS thì chính sách của Nga vẫn coi là trọng tâm trong chính sách đối ngoại, trên tinh thần tăng cường hợp tác nhưng có phân biệt đối xử với các thành viên được đánh giá là thân phương Tây. Trong quan hệ với các nước đang phát triển, Nga đặc biệt chú ý tăng cường quan hệ với Trung Quốc và Ấn Độ trong xu thế cùng chống lại tư tưởng bá quyền và đơn cực của Mỹ.
Với những nỗ lực không mệt mỏi và những chính sách đúng đắn của chính phủ, kết hợp với những nhân tố quốc tế thuận lợi, tình hình mọi mặt của Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI đã có những chuyển biến hết sức tích cực, đất nước đã vượt qua suy thoái và đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng. Kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, trung bình 6,7% trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Putin (2001-2004), đặc biệt, năm 2004, kinh tế Nga tăng trưởng 7,1%, GDP đạt 583,3 tỷ USD, xuất khẩu đạt 142,8 tỷ USD, ngân sách thặng dư liên tục, thu hút FDI năm 2004 đạt 11,7 tỷ USD,